Ân sư
là phép xưng hô dành cho người trúng tuyển gọi
khảo quan đă chấm đỗ ḿnh. Với tôi,
cụ Vương Hồng Sển vừa là người
chấm đỗ, lại vừa là người
truyền thụ trí thức, vừa là người
bạn tâm giao vong niên nữa. Lồng ba vai tṛ
như vậy vào một nhân cách, tôi nghĩ rằng
người ta chỉ có thể t́m được ở
cụ chứ khó có thể t́m được ở ai
khác.
Bài viết này bày tỏ một chút chân t́nh truy niệm
cụ nhân lần giỗ thứ mười (1996 - 2006).
Thái Trọng Lai
Đọc
bài viết LONG ĐONG VÂN ĐƯỜNG PHỦ của
Mai Nguyễn trên Anh Ninh Thế Giới cuối tháng
6/2005, bất cứ ai có chút quen biết cụ
Vương Hồng Sển (1902 - 1996) đều khó
thể gh́m nén xúc động trước những
biến cố ập đến quá nhanh cho một con
người đă tận tụy hơn nửa thế
kỷ sưu tầm, bảo quản bằng tâm ḷng
đầy tŕu mến thiết tha đối với
nhiều hiện vật văn hóa của tổ quốc
và cụ đă di chúc trao toàn bộ (kể cả ngôi nhà
cổ rất có giá trị mang tên Vân Đường
Phủ) cho nhà nước. Đáp lại sự toàn tâm
toàn ư ấy của cụ Sển, đời
"chỉ trả" cho cụ bằng thờ ơ,
vô cảm, vô t́nh và dường như c̣n xen vào đó ít
nhiều phản bội nữa.
Đầu năm học 1964 - 1965, cụ Vương
Hồng Sển được Đại học Văn Khoa
Huế mời dạy mảng văn học miền
Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh nhiều năm, các
thư khố bị "rút ruột" tàn tệ,
chỉ có thư viện gia đ́nh của cụ Sển
mới đảm bảo đủ tư liệu
để nghiên cứu và soạn giáo tŕnh có chất
lượng. Chủ trương ấy của
giới lănh đạo Đại học Huế thật là
sáng suốt, vô tư.
Buổi ra mắt ở giảng đường C
của Đại học Văn Khoa Huế, cụ Sển
bộc bạch... chẳng giống ai.
- Qua nói thiệt với các tṛ, ông Dziện
trưởng mời qua dạy th́ qua dạy, chớ qua
dốt thiệt t́nh! Ngay tới cái tên qua, qua c̣n không
biết dziết nó ra chữ nho làm sao nữa
kia! C̣n nếu qua xin dzô đây học như
mấy tṛ, nhứt định là chẳng ai cho, bởi
qua làm ǵ có được bằng Tú tài?
Đă hơn bốn mươi năm nay, lời tự
bạch ngộ nghĩnh ấy vẫn c̣n nguyên vẹn
trong "bộ nhớ" của tôi, có lẽ nhờ
nó không bị trộn lẫn với bao nhiêu lời
tự bạch khác.
Tôi tin chắc rằng khoản thù lao dạy chúng tôi ngày
ấy, dù cho có cộng thêm vào đấy trọn cả
lương hưu chức Giám đốc Bảo tàng
viện Quốc gia của cụ đi nữa cũng
khó ḷng trang trải nổi thú chơi cổ ngoạn mà
cụ "nghiện ngập" đă nhiều
năm. Tôi sẵn sàng nghi là lắm lúc cụ c̣n
phải "du di" vào đó cả tiền bán bánh bao
mang thương hiệu Bà Năm Se-đéc (nghệ danh
của diễn viên Nguyễn Kim Chung), một
"phần thưởng sống" cho mấy
mươi năm mê hát cải lương của cụ
Sển!)
Ngoài giờ đứng bục giảng, cụ Sển
thường "bao" xích lô tà tà phố xá đất
thần kinh để lùng sách xưa cùng đồ
cổ ngoạn (có lẽ cụ rất thành công v́ ngót 24
đời vua quan của "Chín chúa, Mười ba
vua" nhà Nguyễn, có không ít gia đ́nh ở Huế
vẫn c̣n lưu truyền món này món nọ, đấy là
chưa kể trong giới họ có người c̣n cung
cấp cho cụ lượng thông tin quư giá đáng
tận dụng nữa!). Đôi lúc cụ lại
tấp vào một hàng quà b́nh dân nào đó bên
đường để thưởng thức vài món
lạ của địa phương. Với thói
quen ấy, có lẽ ông già đạp xích lô nọ là
bằng ḷng nhất v́ cụ Sển vừa nhẹ cân
(tuy trông có vẻ cao lớn dềnh dàng) lại vừa
hay la cà, nhất là những lúc cụ ghé tiệm sách hay
thăm một "trang", một "hiên",
một "viên" nào đó của số hưu quan c̣n
sót lại ít ỏi trên đất Huế. Những
lúc như vậy, cụ Sển quên đứt là có xe
xích lô đang neo chờ cụ đă khá lâu, mà "tài
xế" th́ đang chiếm nệm xe, mơ màng
với điếu thuốc Cẩm Lệ vẽ khói ṿng
vèo, chẳng thèm biết rằng trên đời này
lại có hạng khách chẳng biết giục hối
ǵ, cứ nhởn nhơ thơ thẩn kiểu ấy.
Một ngày nọ, gặp tôi ở hành lang, cụ
Sển bảo:
- Anh là NVL đây phải không? Khoảng một
giờ trưa nay ghé lại pḥng tui nói chuyện một
chặp chơi hè! Được không?
- Thưa cụ, được ạ!
Đấy là những lời trao đổi vắn tắt
cụ dành cho tôi vào buổi sơ giao. Tôi rất
cảm kích trước bề ngoài ḥa nhă dễ gần
ấy của cụ. Hồi c̣n tham gia Ban phiên
dịch Sử liệu (Châu bản Triều Nguyễn)
cho Đại học Huế cùng ngót nửa tá các cụ
hưu quan, cái cự ly "tiền bối - hậu
sinh" tuy không phân biệt cho thật cụ thể
nhưng chúng tôi vẫn chỉ ḥa nhau thật đại
khái theo kiểu như trộn nước với
dầu, cung cách e dè, giữ ư lộ ra khá rơ từ cả
hai phía.
Ở cái tuổi 62 của cụ Sển, giấc
ngủ trưa là món rất cần cho thư giăn, sao
cụ nỡ phí phạm bằng việc "nói
chuyện chơi" với một sinh viên xứ
Quảng lạ hoắc như tôi nhỉ? Phải
chăng cụ cần có thêm một vài địa
chỉ các lăo Goriot? (một nhân vật của H. De
Balzac - 1791 - 1850 sống lây lất bằng cách bán lén
những cổ vật gia bảo). Nếu quả
như thế th́ cụ phải nhắm vào các bạn
gốc Huế chứ đâu phải nhắm đến
lượt tôi?
Nghĩ lan man như thế, tôi rụt rè gơ cửa,
thầm mong cụ chợp mắt ngủ ngon để
tôi có cớ rút lui hợp lư. Tôi vốn đang
học với cụ mà đă đă tiếp xúc riêng,
dễ xảy ra "t́nh ngay lư gian" lắm.
Bỗng bên trong có tiếng vọng ra:
- Ai đó?
- Thưa cụ, NVL ạ!
- Dzô đi!
Tôi đẩy cửa, nhác thấy cụ Sển lồm
cồm ngồi dậy, đưa tay về phía
đầu giường lôi ra chiếc cặp da to
tướng. Chiếc cặp trông cổ lổ...
tới số, có lẽ "hắn" lớn hơn
tôi không dưới mươi tuổi. Cụ
nhẹ tay lấy từ trong ấy ra một chiếc
đĩa sứ men lam, đặt trước mặt
tôi vào lúc tôi đă tự cho phép ḿnh yên vị ở xa
lông.
- Anh đọc giùm tôi mấy câu nầy coi?
Cứ tưởng đấy là chữ Hán nên tôi bị
lúng túng mất mấy giây. Rồi khi nhận ra chính
là chữ Nôm tôi lại lúng túng thêm mấy giây nữa, v́
cho đến lúc đó, tôi chưa hề thấy
đĩa sứ nào lại có trang trí bằng thơ Nôm
bao giờ!
Chật vật một lát tôi cũng "ṃ" ra.
Bấy giờ tôi hăy c̣n rất "yếu" về
chữ Nôm. Tôi đọc:
Vắt
chân nằm tốt ngáy o,
Gẫm xem chẳng khác Đường Ngu tính thuần.
Tôi không c̣n nhớ chắc ḷng đĩa
ấy viết là "vắt chân" hay "vắt
tay", hai câu ấy minh họa cho bức vẽ
một ông lăo nằm ngữa, chân vắt chữ ngũ,
tay gác ngang trán đang say giấc trưa dưới bóng
tre râm mát.
Ngày nay nghĩ lại thật đáng xấu hổ.
Đĩa sứ có đề chữ Nôm th́ ai chẳng
biết là món cổ vật kỳ lạ quư hiếm,
thế nhưng phải chi nó to như chiếc mâm, có
lẽ tôi cũng nể nang, dành cho tôi lời trằm
trồ thán phục, chứ tôi không thể... "khen
nịnh" một chiếc đĩa nhỏ thua xa
những chiếc đĩa thật quen mắt vốn
thường được dùng bày bánh bèo Huế mà ông
chủ quán Ngự B́nh hay phục vụ đám sinh viên
háu đói chúng tôi.
Rất nhiều năm sau, qua nhiều bài biên khảo
được đọc, tôi mới hay rằng ḿnh
đă từng có "kỳ duyên" cầm trên tay, nh́n
tận mắt một cổ vật rất ư
đặc biệt do triều đ́nh Quang Trung
đặt làm ở ḷ sứ trấn Cảnh Đức bên
Trung Quốc nhưng rồi chẳng may nhà Tây Sơn
sụp đổ quá nhanh đến nỗi không kịp
nhận hàng. Thế là lô hàng mồ côi ấy lưu
lạc vô định trở thành lô hàng độc
đáo, mang thêm một trọng lượng lịch
sử rất đáng quư nữa. Xét ra chúng c̣n quư thêm
lên rất nhiều so với những con tem, những
đồng bạc in lỗi mà nhà chức trách chưa
thu hồi hết. Thậm chí chiếc đĩa
nọ c̣n đáng được coi là... trên cả quư giá
v́ rất có khả năng chính vua Quang Trung đă đích
thân "ngự chế" mấy câu thơ Nôm nói trên
(Ba mươi lăm năm sau, tôi dễ dàng khẳng
định điều đó sau dịp đọc
mấy câu thơ Nôm trên một chiếc đĩa khác
thuộc quyền sở hữu của người
bạn ở B́nh Thạnh - Sài G̣n). Vậy mà lúc
bấy giờ trước mặt cụ Sển, tôi
lại hoàn toàn dửng dưng, chỉ biết trơ
mắt ra coi nó là... cái đĩa, không hơn không kém!
Nghe tôi đọc xong, cụ chỉnh:
- Nằm "tót" chớ không phải nằm
"tốt" đâu! Đă có một ông Bố Chánh
đọc như vậy rồi!
Ngày nay, khi mọi chuyện đă cùng lắng với
thời gian, tôi chợt nhận ra rằng hồi ấy
chưa chắc cụ Sển cần tôi đọc
lại để kiểm chứng độ tin cậy
mà rất có thể là cụ chỉ cần t́m
người đồng cảm để chia xẻ
niềm vui, một nỗi tự hào chính đáng của
cụ trong việc khéo săn lùng cổ vật.
Cụ cất công t́m kẻ tri kỷ tri âm, ai dè xui
xẻo làm sao lại vớ nhầm một kẻ gỗ
đá vô tri, đang c̣n đầy ḿnh dốt nát cả
về nghệ thuật lẫn lịch sử như tôi.
Nh́n thoáng vẻ bần thần của cụ, tuy chưa
nhận rơ lư do nhưng tôi tự thấy có bổn
phận "tăng nhiệt" cho bầu không khí
buổi làm quen ấy.
- Thưa cụ, cụ thích đọc là nằm
"tốt" hay nằm "tót" ạ?
Giáo Sư
Ngô Văn Lại <photo>
|