Giáo Sư Ngô Văn Lại  <photo>

 

NHỚ ÂN SƯ VƯƠNG HỒNG SỂN (Phần II)

 

 

 

 

 

 

(Tiếp Phần I)

Cụ hóm hỉnh:

- Thích sinh viên hay Bố Chánh chớ gì?  Tui thấy Bố Chánh nghe "Nôm" hơn, mạnh hơn, ngộ hơn đó.  Anh thấy "tót" nghe không lọt tai hay tại chánh anh chưa nghĩ ra được cách đọc ấy?

Tôi từ tốn:

- Thưa cụ, quả tình là con chưa kịp nghĩ ra chữ "tót".  Nhưng bây giờ thì con đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi ạ!

- Chịu "tót" rồi hả?

- Thưa cụ, không ạ "Tốt" mới hợp cảnh...

Giọng cụ đượm chút phật ý:

- Sao?

- Thưa cụ, con xin phép đọc bài thơ Vịnh sư của Tú Xương:

Ðầu trọc lóc bình vôi,
Nhảy tót lên chùa ngồi.
Ê a kinh một bộ,
Lốc cốc mõ ba hồi,
Bữa ăn chẳng thịt cá,
Chỉ rặt oản, chuối, xôi.
Vợ con cũng chẳng có,
Ðành chịu tiếng mồ côi....

 

Thưa cụ, Tú Xương "ác khẩu" quá đáng như vậy cốt để tỏ nỗi bất bình.  Theo con thì có lẽ trên đời này chỉ có mình Tú Xương to gan đến mức dám gọi nhà sư là... chú trọc:

Ngủ quách sự đời, thây kẻ thức,
Bên chùa chú trọc đã hồi chuông.

 

Dưới mắt Tú Xương, giới sư sãi bộ dạng đã khó coi, thái độ lại hỗn xược, vô lễ.  Nhảy "tót" là nhảy bừa lên cái chỗ cao quý mà đáng lẽ người ta thường phải "mời", phải "nhường" nhau tới cùng chớ không phải chiếm đoạt ngang ngược.  Ngày nay, ngôn ngữ dân gian gọi vậy là "nghèo mà ham" còn ngày xưa Khổng Tử gọi thế là "ngu nhi hiếu tự dụng, tiên nhi hiếu tự chuyên" (ngu mà tự thích dùng mình - chứ không mời người tài trí -, hèn mà thích chuyên quyền) tức là tự cho mình có giá trị trong xã hội chứ không khiêm tốn nhún nhường cho đúng với thân phận đang có của mình.

Như vậy, chữ "tót" không phù hợp với việc minh họa cảnh trang trí này ạ.

Cụ Sển gật gật mấy cái rồi hỏi:

- Còn "tốt" thì sao?

- Thưa cụ, chữ "tốt" thường đi cặp ăn ý nhất với chữ "chết".  Chết tốt thì xảy ra rất nhanh, nạn nhân thường không kịp biết hoặc chẳng có được cảm giác nào.  Từ ý nghĩa đó "Nằm tốt" lại "ngáy o" tất ngụ ý là "ngủ say như chết", thoải mái tối đa, phục hồi toàn hộ lao lực trút ra trước đó.  Ngủ như vậy thì không mơ tưởng điều hảo huyền, không toan tính hay cay cú vinh nhục, được mất của cõi phù sinh.  Ðúng là giấc ngủ lý tưởng ạ!

Tuy nhiên, nằm "tót" của vị Bố Chánh nọ xét ra cũng không phải là không phù hợp với những cao nhân ẩn giả như Sào Phủ, Hứa Do, coi danh lợi trên đời là bẩn thỉu không đáng nghe.  Hai ông ấy tuy cũng sống thời Ðường Ngu nhưng lại không "tính thuần" bằng ông lão nông trong đĩa này.

Cụ gật gật đầu, cười hết cỡ, khóe mắt nhăn tít, phô ra hàm răng trên vắng mặt mấy vị trí tiền đạo.  Khi kết thúc đợt cười, cụ ôn tồn bảo:

- Lý lẽ anh cứng lắm.  Ðúng như ông Khoa trưởng đã cho tui biết.  Nhưng... thây kệ anh, tui vẫn cứ thích hai chữ "nằm tót" của ông Bố Chánh hơn!

Tôi nịnh ngầm:

- Thưa cụ, như vậy là cụ "cùng phe cánh" với Sào Phu, Hứa Do phải không ạ?

Cụ đùa bằng lời lẽ thật bất ngờ:

Á.. à!  Bộ tưởng là tui cũng chăn trâu đó hả?  Trật lất rồi à nhen!  Tui sợ đỉa... có nòi lận đó!

Nói xong câu đùa ý nhị ấy!  Cụ cười hề hề đắc ý.  Tôi như gà mắc tóc, cảm thấy mình như bị vạ miệng ngang xương, vẫn không sao chống chế được câu nào.  Cái khó ở đây là chống chế nghe "thiệt thà" quá thì quỷnh, còn phá phách cho đúng liều lượng đùa cợt thì vô phương.

Trong hàng ngũ giảng dạy ở Ðại học Huế bây giờ cụ Sển thuộc lớp cao niên, chỉ kém tuổi vài cụ dạy môn Hán văn.  Nhưng dù so với cả lớp trẻ, cụ Sển cũng vẫn là "tếu" nhất.

Có lần cụ kể:

Hồi Tổng thống Ngô Ðình Diệm vào thăm Thảo cầm viên Thị Nghè.  Viên Bảo tàng quốc gia do cụ Sển quản lý vốn nằm trong khuôn viên ấy, cụ lại là bậc cao niên nên phải đảm nhiệm vai trò chủ nhân, đưa khách đi loanh quanh giới thiệu mọi thứ.  Ðến chỗ một cây lạ, Tổng thống hỏi:

- Cây ni cây chi?

Tuy có sẵn một vị Tiến sĩ Thực vật học, tác giả pho sách đồ sộ Cây cỏ Việt Nam hẳn hoi, lẽ ra vị nọ tha hồ vanh vách nêu từ tên khoa học bằng tiếng la tinh cho đến vô số tên Việt, Tàu, Thái, Lào,...  Thế nhưng chính ông ta lại... câm như hến.  Cụ Sển vọt miệng đỡ lời:

- Bẩm Tổng thống, cây "dái ngựa" ạ!

Nhà thực vật học nọ sững sờ, nhìn cụ như ngầm trách móc.  Cụ Sển chột dạ, oán cho cái cây nọ sao chẳng chịu mang tên gì cho tử tế dễ nghe, mà lại mang nhằm cái tên oái oăm đến thế!  Tội khiếm nhã, phạm thượng ấy chắc là khó thể bỏ qua (Bấy giờ người ta từng truyền nhau khá nhiều giai thoại về nề nếp "giữ lễ" khư khư có phần quá đáng giữa đám anh em nhà ông Tổng thống ấy.  Thậm chí chỉ cần ông anh cả phán cho vài tiếng "Thằng nớ ngó không được!" tức thì Tổng trưởng bay chức cái vèo, hoặc tỉnh trưởng rụng lộp độp như sung).  Cứ thế, cụ Sển chịu đựng cơn thấp thỏm cả tháng trời.

Lần khác, cụ dạy bài thơ Vịnh con trâu (của Huỳnh Mẫn Ðạt thì phải).  Bài thơ bắt đầu bằng những câu:

Mài sừng cho lắm cũng là trâu,
Gẫm lại nhà bay thật đớn đau.
Trong bụng lam nham ba lá sách,
Ngoài cằm lém đém một chùm râu...

 

Hầu hết chúng tôi đã thuộc lòng bài ấy ngay từ hồi còn học lớp Ðệ Tứ (lớp 9 ngày nay) Cái tinh thần đã kích bọn quan lại phong kiến thống trị ấy đã lộ liễu rành rành, thật chẳng còn chút gì để nói, chẳng có gì để nhớ thêm.  Thế nhưng buổi học trở nên vui nhộn thú vị ngoài dự kiến.

Cụ Sển cho biết là Vịnh con trâu đã có lúc còn được giới "trà dư tử hậu" ở trỏng làm cho nó "cải đổi giống loài" để biến ra thành... Vịnh con nai như sau:

 

Mài sừng cho lắm cũng là nai,
Gẫm lại nhà bay thật lớn... vai.
Trên trán lô nhô hai mớ gạc,
Dưới đi lủng lẳng một chùm khoai!

 

Chúng tôi lúc mới đầu còn đang cười khúc khích có vẻ vô hại, rồi bất ngờ bùng nổ ngay một trận cười ngặt nghẽo, ầm ỹ dậy trời chỉ vì "chùm khoai" xuất hiện quá bất ngờ!  Chúng tôi nào đã mấy ai được nghe thiên hạ ví von so sánh quái quỷ như vậy bao giờ đâu?

Cụ Sển cũng bị lây cơn cười, ràn rụa nước mắt. Ðến lúc thầy trò cắt được cơn cười thì mấy câu còn lại cũng bị cụ "cắt" luôn.

Việc cụ chính thức là "ân sư" của tôi thì xảy ra vào mùa Hè 1965.

Ở Ðại học Văn Khoa Huế năm ấy có ba thầy dạy môn văn học, kể cả cụ Sển.  Cả ba đều ra đề thi nhưng Phòng khảo thí chỉ bốc thăm chọn hai đề.  Ðến giờ chót, giáo sư ra đề mới được thông báo để chuẩn bị chấm bài.

Năm ấy, đề thi của cụ Sển được bốc trúng.  Lẽ ra cụ cứ việc "bao" xích lô như mọi lần rảnh rang khác để đi lùng những thứ gì cụ thích, lúc về chỉ cần ghé lại văn phòng nhận bài về chấm là xong, thế nhưng cụ đã làm cái chuyện... chẳng hề có tiền lệ.

Cụ "trấn" ngay cửa ra vào.  Chúng tôi bị kẹt lại bên ngoài lố nhố.  Giọng cụ ôn tồn nhưng rõ ràng có ngầm chứa sự năn nỉ lẫn hù dọa:

Bữa nay các trò thi đề của tui ra.  Tui đã 72 tuổi rồi (cụ sợ chấm bài "dở" của chúng tôi đến mức phải tự "đôn" thêm cho mình đúng mười tuổi, ăn đứt cả những gã trốn quân dịch bạo gan nhất!)  Mắt tui không đọc nhiều được đâu! trò nào "dziết" sáu trang đổ lại là làm "dzăn", trò nào làm bảy trang trở lên là "ị" (cụ nói toạc chứ không... kiêng dè như tôi)  Tới đó thời không phải là "dzăn" nữa đâu!

Khi làm bài, tôi quên khuấy lời dặn "chém đinh chặt sắt" ấy của cụ.  Nói cho thật lòng thì tôi cũng có nhớ lời dặn ấy vào đúng cái lúc đã vô phương khắc phục, dành phải tặc lưỡi... mặc kệ đất trời!

Hôm vào vấn đáp môn cụ, phòng chờ đông kín người.  Phần đông là những vị trà trộn vào cốt để theo dõi, rút kinh nghiệm cho những năm sau.  Cũng có mặt vài thiếu nữ rất Huế có nhã ý đi "chi viện tinh thần" cho vài sĩ tử nào đó nữa.

Vừa ngồi vào ghế, cụ xóc xóc xếp thẻ sinh viên rồi hỏi lớn:

- Có anh NVL không hè!

 

<Phần III>

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  <photo>