Khoảng 7
thế kỷ trước Công Nguyên, các nhà tư
tưởng Iran, Ấn Độ, Hi Lạp, Trung Quốc,
v.v... đă đua nhau nêu ra lắm bí quyết tồn
tại cho con người trong cuộc đời.
Phạm vi bài này chỉ đề cập thuyết
Thuyền Không của Đặng Tích (Trung Quốc).
Mẩu
chuyện ngụ ngôn xuất sắc của ông về
thuyết này như sau:
Có một
chiếc thuyền nọ chở khẳm, đang
cực nhọc vượt thác từng tấc một
trong đêm tối. Chợt phía thượng
nguồn hiện ra một thuyền khác lao xuống
băng băng. Thủy thủ thuyền nọ gào
lạc cả giọng và c̣n huơ đèn ra hiệu
rối rít thế nhưng thuyền kia cứ ào ào lao
tới húc vỡ thuyền nọ. Toàn bộ hàng
hóa trên thuyền bị cuốn theo ḍng thác hung hăn không
sao thu hồi được nữa. Vài thủy
thủ thoát nạn, họ hết sức căm
phẫn chiếc thuyền gây sự nọ, hối
hả bơi vào bờ rồi thuê thuyền nhẹ ráo
riết rượt theo.
Đến gần
sáng th́ họ đuổi kịp. Các thủy
thủ hung hăng cặp mạn thuyền kia rồi
ào ào vào khoang t́m kẻ ác ư để "sửa
trị" đích đáng. Kết quả là
chiếc thuyền kia rỗng không. Cuộc bắt
đền bất thành. Cơn giận sôi sục
đă khiến họ dốc hết sức lực b́nh
sinh chèo thuyền như điên cuồng, giờ đây
xẹp xuống quá nhanh, làm cho họ bỗng chốc
mệt nhoài, ngao ngán thở dài chẳng c̣n biết trút
giận vào đâu.
Thông
điệp của Đặng Tích gửi qua truyện
ngụ ngôn này là: Thân phận con người trong
đời thật mong manh bất trắc như
chiếc thuyền nhẹ giữa ḍng sóng dữ không
biết có đủ sức cầm cự với sóng
nước hay phải trôi giạt về đâu.
Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1789) đă nêu bật h́nh
tượng ấy bằng những câu thơ Cung Oán
Ngâm Khúc:
Cái quay búng
sẵn lên trời,
Mờ mờ
nhân ảnh như người đi đêm...
Và:
Sóng cồn
cửa bể nhắp nhô,
Chiếc
thuyền bào ảnh thấp tho mặt ghềnh.
Phan Kế Bính
(1875 - 1931) cũng đă chọn dịch một bài
thơ đặc sắc của Nguyễn Trăi (1380 -
1442) bàn cùng chủ đề đó bằng nỗi
niềm tha thiết hơn nhiều:
Sự
đời như chiếc thuyền không,
Biết đem
tâm sự ngỏ cùng ai hay?
Chắc chi thiên
hạ đời nay,
Mà đem non
nước làm rầy chiêm bao?
Đă buồn v́
trận mưa rào,
Lại đau
v́ nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi
nước chảy xuôi ḍng,
Chiếc
thuyền lờ lững trên sông một ḿnh...
Nguyễn Trăi
cố giữ thái độ tỉnh táo trước bao
biến cố sôi động của thời cuộc
bấy giờ (nhà Minh thôn tính nước ta cực
kỳ tàn bạo), nhưng rồi chính ông lại không
kiềm giữ nỗi cho chiếc "thuyền
không" mà phải ra sức chở đầy thù nhà
nợ nước để rồi bị cuốn vào
ṿng xoáy nghiệt ngă của thời thế.
Rồi sau khi đă ổn định được
thời cuộc, nhận địa vị công thần
số một của Lê Lợi, ông c̣n phải chật
vật giữa đám người tranh công tàn nhẫn
để leo đến chức Nhập Nội Hành
Khiển (tương đương Thủ
Tướng ngày nay) cuối cùng ông lại bị
cuộc đời nhấn ch́m vào h́nh phạt tru di tam
tộc vô cùng bi đát trong thảm án Lệ chi
viên. Nguyễn Trăi đă lập chí "thuyền
không" qua bài thơ nọ ngay từ đầu,
thế nhưng rốt cuộc lại bị
"ch́m" v́ thuyền ḿnh chở... quá khẳm!
Lăo Tử
đặt vấn đề "thuyền không"
thẳng thắn hơn: con người phải
biết giữ cái tâm cho "rỗng" (hư) và
"lặng" (tĩnh) sống sao cho hiền lành,
tiện tặn, đừng hiếu thắng (Nhất
viết từ, nhị viết kiệm, tam viết
bất cảm vi thiên hạ tiên - Đạo Đức Kinh).
Những tiêu
chuẩn ấy của Lăo Tử nghe có vẻ phong phú và
chặt chẻ hơn Đặng Tích nhưng cả hai
đều đặt con người vào thế bị
động, dễ bị kẻ mạnh hơn
kiềm chế, điều khiển, chi phối,
rất khó duy tŕ chí hướng đeo đuổi ban
đầu, nhất là ngôn ngữ dân gian lại luôn
dạy người ta "lên voi, cầm giáo"
hoặc "cờ đến tay ai, người
nấy phất" và c̣n kích động người
ta "theo gió phất cờ", .v.v.. khiến cho
người ta khó ḷng cưỡng lại "số
mệnh" để giữ vẹn tinh thần
"thuyền không" dù biết đấy là phương
cách khôn ngoan nhất.
Nguyễn Công
Trứ (1778 - 1858) đă tiếp thu tư tưởng
người xưa rồi "nắn" lại cho
ḿnh một bản sắc thích nghi, tạo hài ḥa cho chí
hướng với cuộc đời qua mấy câu
Hát nói:
Người có
biết ta hay chẳng biết,
Chẳng
biết ta, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo
hợp Thái ḥa,
Sạch không
trần lụy, ấy là thần tiên.
Ngang tàng lạc
ngă tính thiên...
Ư thức
tự tại của Nguyễn Công Trứ khá mạnh
mẽ và thật độc đáo. Cái "ta"
của ông sừng sững, bất chấp mọi áp
lực bên ngoài. Ông tiêu biểu cho tinh thần
nhập thế, dấn thân, chấp nhận tất
cả. Ông hăm hở lao vào mọi lĩnh
vực, được giao nhiệm vụ rồi hoàn
thành xuất sắc, thế nhưng vẫn giữ ḷng
như chiếc "thuyền không", chẳng thèm gây
bè cánh thế lực, chẳng bo bo bám giữ cái c̣n,
chẳng xót xa tiếc nuối cái mất. Đang làm
đại tướng bị cách làm lính thú, ông coi
cả hai cảnh ngộ ấy có ư nghĩa như nhau
trên mặt bằng cuộc sống, không thèm phân
biệt vinh, nhục, không thèm e dè điều đáng
thi phi. "Sạch không trần lụy" là cách
xử lư trung thực nhất của ông đối
với chủ thuyết "thuyền không".
Ông từng đă nhiều lần giữ các chức
quan đầu ngành: Tổng đốc, Tả Đô
ngự sử, Binh bộ thượng thư, Doanh
điền sứ, Phủ doăn, v.v... thế mà khi
về hưu, ông rũ sạch mùi danh vọng, không thèm
bu bám hư danh "nguyên" này, "cựu"
nọ, chỉ sắm xe ḅ lịch kịch du ngoạn
ung dung (Đủng đỉnh ḅ vàng đeo nhạc
ngựa...) Năm 73 tuổi ông c̣n cưới cô gái 17
tuổi làm vợ thứ 14 nhưng với ông, đấy
không phải là chuyện đa mang đèo ḅng mà là
thủ đoạn nguy trang để hạng tiểu
nhân không có cớ gièm pha. Đấy là phương cách
"thuyền không" khá tuyệt vời. Quả
nhiên ông đă che mắt được những kẻ
đơm đặt hại người thuộc
loại Nguyễn Công Nhàn, thành thử ông hí hửng:
Trong triều
ai ngất ngưởng như ông...
Bởi v́
đến thời điểm ấy, Việt Nam
chỉ mới có hai trường hợp như
thế:
Thế gian
mấy kẻ tài t́nh?
Lăo Trần là
một, với ḿnh là hai!
(Trần Tu
ở tuổi 73 như ông được vua gả công
chúa 17 tuổi. Dân gian có câu ca:
Trần Tu
tuổi bảy mươi ba,
Đi thi đỗ
Trạng, vợ nhà con chưa.
Vua hỏi chàng
mới bày thưa.
Lệnh
truyền công chúa gả đưa cho chàng.
Có vợ
lại có bạc vàng,
Công thành danh
toại mọi đàng hiển vinh...)
Điều thú
vị trong sách lược nguy trang ấy là trong bài ca
trù đề cập mối duyên đặc biệt
nọ của ḿnh, Nguyễn Công Trứ đă
"để đời" một câu hóm hỉnh...
trên cả tuyệt vời:
Tân nhân dục
vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập
niên tiền nhị thập tam...
Tạm
dịch:
Cô em muốn
hỏi tuổi chàng,
Năm
mươi năm trước rơ ràng hăm ba...
Ông vui sống
hiên ngang (ngang) nhưng không phô trương triết lư
nhập thế tích cực (tàng) và dân chúng các huyện
Kim Sơn, Tiền Hải ở Thái B́nh, các tổng
Hoành thư, Ninh nhất ở Nam Định không ai
"hoan hô", "muôn năm" ông, mà họ chỉ
lẳng lặng làm đền thờ ông ngay khi ông c̣n
sống Công lao lấn biển đưa dân nghèo
đến lập nghiệp những nơi đó là
điều mà trước ông và sau ông có lẽ chưa
ai thành công bằng ông.
Nguyễn Công
Trứ chủ trương sống hết ḷng với
đời, không "giữ lại" trong ḷng chút
mưu mô thủ đoạn nào, tuy có lắm kẻ ghen
ghét nhưng rốt cuộc chẳng làm ǵ ông
được một khi ông đă "đắc
đạo" thuyền không. Ông nêu cho ḿnh
phương châm "Linh khâm bảo hợp Thái
ḥa" (đem ḷng ḿnh ḥa với đạo
trời).
Vậy
đạo trời mà Nguyễn Công Trứ đề
cập là ǵ?
Lăo Tử từng
so sánh đạo trời với đạo
người như sau:
- Đạo
của trời th́ làm hao cái dư bù cho cái không
đủ. Đạo của người th́ không
vậy: đem cái không đủ cung phụng cho
cái có dư (Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi
bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất
nhiên: Tổn bất túc dĩ phụng hữu
dư - Đạo Đức Kinh).
- Đạo
Trời (ngày nay nên coi đấy là thứ siêu quy
luật của tự nhiên) th́ chủ trương
đem cái dư bù chỗ thiếu, bằng chứng là
mưa gió san bạt cái đỉnh núi cao đưa
lũ lụt mang chúng xuống biển, rải lại
dọc đường những cao nguyên, b́nh nguyên,
rồi lại đưa hạt giống đi xa theo
gió, theo nước để phát triển cuộc
sống muôn loài. Nếu con người
đừng chất chứa các tính tham lam, ích kỷ,
hiếu thắng, v.v.. mà biết chăm giữ cho tâm
hồn ḿnh nhẹ nhơm như chiếc "thuyền
không" th́ toàn thể vũ trụ đâu đâu
cũng sẽ đạt được đạo
Thái ḥa (ḥa hợp lớn lao), không chỗ nào thiếu,
chẳng nơi nào thừa, không "thuyền" nào
bị lật ch́m do chở quá khẳm. Thuyết
xă hội đại đồng thực ra cũng
chỉ thu hẹp tư tưởng Thái ḥa đó.
- Lối
sông dấn thân hết ḿnh của Nguyễn Công Trứ
thoạt đầu có vẻ đi ngược
"chủ thuyết thuyền không" của
Đặng Tích thế nhưng ư thức vị tha của
ông, tinh thần "sạch không trần lụy"
của ông chính là một biện pháp "thuyền
không" tích cực nhất, mang tính khả thi cao
nhất. Phải nạp cho đầy thuyền
trước đă rồi mới trút "sạch
không" cho đời, đấy mới là cách
tạo nên nhựa sống cho xă hội loài
người, mới vận dụng "chủ
thuyết thuyền không" hợp lư nhất, hữu
hiệu nhất, minh triết nhất.
Như vậy,
ta cần phải hiểu rằng chủ thuyết
"Thuyền không" thực chất là dành cho
người siêng năng, vị tha khi họ đă
"biết đủ", "biết dừng"
để nhường đường cho lớp
hậu sinh tài cán chứ thuyết ấy không phải
dành cho kẻ lười nhác, vị kỷ, trốn
tránh nghĩa vụ làm người.
Về tổng
quát, mỗi học thuyết chỉ có giá trị cho
một giai đoạn, một hoàn cảnh thích hợp
nào đó cho mỗi con người. Vai tṛ chủ
yếu của học thuyết là để tham
khảo chứ không phải để cưỡng bách
áp dung. Đă có những học thuyết trong quá
khứ lịch sử, ngày nay chỉ c̣n giá trị
lợi dụng chứ không hề c̣n giá trị
thực dụng nữa.
Thuyết
"thuyền không" của Đặng Tích ra
đời để làm "giảm nhiệt"
cuộc xâu xé khốc liệt của liệt quốc
thời Xuân Thu ở Trung Quốc. Rời khỏi
hoàn cảnh ấy nó trở thành lực cản cho
những cố gắng của con người trong công
việc xây dựng và phát triển để vươn
lên tầm cao của cuộc sống.
Trong phạm vi
hẹp của mỗi tộc họ, mỗi gia
đ́nh, mỗi khu dân cư thuyết "thuyền
không" góp phần duy tŕ ḥa khí vốn là thứ
thường làm hao tốn nhiều tâm huyết mới
tạo ra được nhưng lại dễ bị
những phần tử kém hiểu biết làm mất
mát dễ dàng nhất.
(Dựa theo gia phả
họ Ngô)
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吴文赖老师 <photo>
Việt Nam, 2006
|