KHAIMINH.ORG

 

ĐĂ T̀M THẤY… GIẤY KHAI SINH

CỦA BÀI VÈ QUẢNG NAM HAY CĂI

 

 

 

 

 

请阅读吴文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

Trong vô vàn bài ḥ vè dân gian, bài có tầm phổ biến tương đối rộng răi trong không gian lẫn thời gian có lẽ là bài:

 

Quảng Nam hay căi,
Quảng Ngăi hay co,
B́nh Định hay lo,
Thừa Thiên ních hết!

 

Tuy bài vè ấy có 4 câu nhưng trong sử dụng, người ta lại thường chỉ nhắc riêng một ḿnh câu thứ nhất, c̣n ba câu kia gần như bỏ đứt, chẳng mấy khi được động đến.  Thế nhưng cả 4 câu đều thuộc cùng một "ca sinh tư" của bài vè nọ nên việc... t́m giấy khai sinh nhất thiết phải được tiến hành đồng bộ, liên đới nhau.

 

Trước hết, cần luận đoán xem v́ sao có cuộc qui kết cho người dân 4 tỉnh ấy vào 4 tính cách tiêu biểu:  căi, co, lo, ních, mà lại không quy kết các tỉnh khác của họ cũng như bất cứ tính cách nào khác ở các tỉnh khác nữa?

 

Xét ra, bốn tính cách ấy biểu hiện khá tập trung vào việc tuyển bổ quan lại từ thời Minh Mệnh trở đi (v́ tên gọi tỉnh Thừa Thiên chỉ mới xuất hiện sau khi vua Minh Mệnh đổi tên mới vào năm 1822 từ tên cũ là doanh Quảng Đức).

 

Nguyên trong việc chọn quan lại bấy giờ, người ta nhận ra khá rơ là những người gốc Quảng Nam thường bị phân biệt đối xử thiệt tḥi nhất.  T́nh trạng ấy có lẽ là v́ ḷng oán thù sâu đậm:  Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn từng được chúa Trịnh phong làm Quảng Nam trấn thủ Tuyên úy đại sứ Cung quốc công từ năm 1777 để đánh chúa Nguyễn.  C̣n theo sử nhà Thanh th́ trong giấy tờ bang giao buổi đầu, khi c̣n là Bắc B́nh vương, Nguyễn Huệ đă xin vua Càn Long cho "nước Quảng Nam" của anh em ḿnh được đối xử ngang hàng với nước Đại Việt của Lê - Trịnh (c̣n chuyện va chạm nhau giữa hai... "nước sừng ốc" * chỉ nên coi là chuyện nhỏ nhặt xin Thanh triều đừng bận tâm!).  Tính ra, dân Quảng Nam đă hợp tác với "ngụy triều" ngót 25 năm (từ 1777 đến 1802).  Đó là chưa kể từ nhiều năm trước nữa, Quảng Nam từng là địa bàn đi về khá quen thuộc của Nguyễn Nhạc, đưa đến việc Đông cung Nguyễn Phúc Dương đă bị bắt ở Ô Gia (Đại Lộc, Quảng Nam) vào tháng 7 - 1775 rồi đưa về quản thúc tại bản doanh của Nguyễn Nhạc đóng ở Hội An.   (Đến tháng 8 - 1777, Đông cung Dương sau nhiều lần dời chỗ, cuối cùng bị Nguyễn Huệ giết ở Vĩnh Long).

 

Nước sừng ốc :  Nguyên văn "Oa giác quốc", nêu khái niệm về cái cực nhỏ.  Trong sách Nam hoa kinh, Trang Tử có đề cập một cuộc chiến tranh giữa hai "quốc gia" có lănh thổ nằm trên hai sừng của ốc sên.

 

T́nh h́nh ấy khiến cho các vua đầu đời Nguyễn quen coi người Quảng Nam là những kẻ phản trắc, quên ơn mở mang của các đời chúa, chẳng những đă không cưu mang che giấu nỗi Đông cung mà có lẽ c̣n cố t́nh chỉ điểm làm hại Đông cung nữa.  (Đám tả hữu của vua nắm bắt tâm lư ấy nên coi việc hăm hại những kẻ thuộc quyền có gốc Quảng Nam là cách làm được "đức Kim thượng" đánh giá cao!).  Những lỵ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng nguy hiểm, thường dành cho những người Quảng Nam cứng đầu khó bảo.  Và ở những nơi heo hút ấy, các thuộc chức nọ rất dễ bị loại quan trên ham thăng tiến giở tṛ nén ép, vu vạ, đẩy họ vào cái thế phải chọn:  muốn khỏi chết, khỏi cách chức, phải căi tới cùng, thà chịu tội "ngỗ phạm quyền quư" c̣n hơn là chịu chết oan bởi bè lũ tâng công xằng bậy.

 

Người Quảng Ngăi tuy không "kẹt" vào hoàn cảnh như người Quảng Nam nhưng dù ǵ th́ miền ấy cũng từng là địa bàn một thời khá lâu dài của Tây Sơn, nếu chẳng may quan trên cảm thấy khó ưa một ai ở đấy th́ chỉ cần ghép họ là kẻ thân tín, là bà con nội ngoại, là học tṛ v.v... của một viên chức Quảng Nam nào đó đang "có vấn đề" th́ cho dù không phải là dân Quảng Nam đi nữa, họ cũng khó thể yên thân!  Đấy là tṛ vè mà các quan to (nhưng tâm địa nhỏ) hay diễn.  Tất nhiên là người Quảng Ngăi nào bị dồn vào t́nh thế ấy, họ nhất quyết sẽ đôi co, sẽ co cượng đến cùng, không chịu để cho kẻ ác đạt được ư đồ đen tối dễ dàng.

 

Người B́nh Định th́ quả thật t́nh vô phương rũ sạch tội nợ!  Nếu không phải tại dân B́nh Định cung cấp nhân lực, vật lực (và cả địa h́nh, địa thế nữa chứ!) th́ phong trào Tây Sơn lấy ǵ để lớn mạnh nhanh chóng đến thế được?

 

Trong hoàn cảnh đó, người B́nh Định nhất cử nhất động đều đặt trong lo lắng, nhất là khi Gia Long đă hằn học công khai tuyên bố "Trẫm sẽ v́ chín đời mà trả thù!"  Vậy việc quật mồ làm nhục, cho voi giày để khủng bố, chắc ǵ được nhà vua coi là đă hả giận?  Và nếu chưa hả th́ "người ta" c̣n biết trút vào đâu cho chệch khỏi những người dân B́nh Định vốn đă bị tước mất khả năng phản ứng?  Người B́nh Định khó ḷng nguôi bớt lo âu lo lắng dù cho họ đă biết mọi đường lo liệu, lo lót thật ấm ḷng những loại "c̣" chạy chức, chạy tội!

 

Như thế, cư dân của cả ba tỉnh kể trên đều rơi vào t́nh cảnh chật vật, kém lợi thế trong cuộc cạnh tranh thăng tiến, thành ra mọi thuận lợi đều dồn cả về cho người Thừa Thiên.

 

Ngay từ khi Nguyễn Vương hăy c̣n ở tuổi 17, 18, đang c̣n phải bôn ba lưu lạc lắm nơi, đă bí mật nhận được tác phẩm trường thiên (670 câu) Hoài Nam Khúc (điệu nhớ phương Nam) của Hoàng Quang (người Hương Trà - Thừa Thiên) lời lẽ thiết tha ca ngợi công đức của các chúa Nguyễn.  Tác phẩm ấy làm Vương thật xúc động, trao cho các đoàn Du xuân bạn (tương đương Đội văn công ngày nay) phổ diễn nhiều miền làm nức ḷng phục quốc của quân dân Gia Định, c̣n bản thân Nguyễn Vương th́ sẵn sàng dồn cho dân Thừa Thiên toàn bộ ḷng tin cậy, cảm mến mà vua đă... thẳng tay thu hồi ở các suất của ba tỉnh kể trên.

 

Trong t́nh thế đó, người các nơi kia cho dù có đỗ đạt thành danh muốn t́m một chỗ đặt chân trên đất kinh kỳ, điều đầu tiên là phải nhờ cậy người Thừa Thiên, họ vừa chỉ cho đường đi nước bước đạt hiệu quả cao, vừa làm trung gian đắc lực trong giao tiếp với kẻ ưu thế.  Chuyện "tế nhị" ấy đă bị những kẻ xót của dung tục hóa bằng tiếng ních (nhồi nhét cho đầy, cho chặt - định nghĩa của từ điển Khai Trí Tiến Đức).

 

Tuy nhiên, những luận giải trên chưa hẳn đủ sức thuyết phục mà c̣n phải nhờ thêm hai nhân vật lịch sử nữa.

 

Nhân vật thứ nhất là Doăn Văn Xuân.

 

Doăn Văn Xuân quê ở Lễ Dương (tên cũ của Thăng B́nh, Quảng Nam) đỗ cử nhân cuối thời Gia Long, làm quan thời Minh Mệnh, nếm đủ mùi cay đắng, (có lúc bị cách chức rồi khởi phục ở chức thấp hơn).  Măi đến cuối đời ông mới làm đến chức Án sát Gia Định rồi từ trần tại nhiệm.  Khi Thiệu Trị đăng quang (1840), nhân dịp đại khánh ấy,  Doăn mới được ban ân huệ truy tặng hàm Thị Lang.

 

Việc truy tặng của triều đ́nh vốn thường tốn khá nhiều thời gian (với Nguyễn Công Trứ, mất đến 43 năm) nên ta rất khó đoán họ Doăn qua đời vào năm nào, tuy sự qua đời của ông có dính dáng niên đại xuất hiện câu vè trên.  Sự dính dáng đó sẽ được bàn kỹ ở phần sau.

 

Nhân vật thứ hai là Trương Đăng Quế (1793 - 1865).

 

Trương Đăng Quế người B́nh Khê, Quảng Ngăi. Ông đỗ cử nhân cùng khóa 1819 với ông "hay căi" họ Doăn, cùng giữ chức Bạn độc (dạy Hoàng tử) 8 năm như Doăn, chỉ khác là sau đó, ông "hay co" này thăng tiến vùn vụt, làm Phụ chính cả hai triều Thiệu Trị và Tự Đức (vụ truy tặng chóng vánh chức Thị Lang cho họ Doăn liệu có... "dấu vân tay" của Phụ chính họ Trương?)

 

Khi họ Doăn rời nhiệm sở Tập thiện đường (nhà học các Hoàng tử) đi nhậm chức Hiệp trấn Cao Bằng, Trương Đăng Quế làm thơ tiễn biệt có câu đầu rất đáng... nghiên cứu:

 

B́nh sinh bất giải tác du từ...
(Cả đời không hiểu nổi cách nói hùa)

 

"Bất giải tác du từ" quả t́nh đă ám chỉ họ Doăn là dân "hay căi" chứ dứt khoát không c̣n ám chỉ ǵ khác!  Bởi v́ kẻ đă không hiểu rằng ở đời người ta thường nói hùa cho thuận với ḷng kẻ khác, c̣n ḿnh th́ lại cho rằng đă nói th́ dứt khoát là phải nêu ư kiến riêng, như vậy liệu c̣n biết tránh đường nào cho thoát khỏi... hay căi?

 

"B́nh sinh" của ông Doăn phải tính vào thời gian cả hai cùng làm chức Bạn độc 8 năm (1820 - 1827) là dịp họ hiểu kỹ tính nết "b́nh sinh" của nhau.

 

Do đó, người ta có thể xác định cụm từ "Quảng Nam hay căi" ra đời sau năm 1822 và trước năm 1827 mà không e ngại có chuyện nhầm lẫn.

 

Nói cách khác, ta có thể h́nh dung rằng năm sinh "ghi" trên mảnh giấy khai sinh bài vè nọ đă bị... mối xông mọt gặm sao đó làm mất đi con số hàng đơn vị, người ta chỉ c̣n nhận ra được ba con số đầu (182) mà thôi.

 

Nội hàm của bốn câu vè tếu ấy bao quát tính cách nhân vật cả bốn địa phương (Quảng Nam - Quảng Ngăi - B́nh Định - Thừa Thiên), chứng tỏ tác giả phải là một hay nhiều người sống ở tầng cao trong xă hội mới có được tầm nh́n rộng như vậy.

 

Suy luận này hoàn toàn phù hợp với Trương Đăng Quế (và Doăn Văn Xuân) v́ họ cùng trải qua tám năm giữ chức Bạn độc ở Tập thiện đường (nơi dạy chung các hoàng tử của vua Minh Mệnh) và Tán thiện đường (nơi dạy riêng Đông cung thái tử Miên Tông, tức vua Thiệu Trị sau này).  Và kể từ năm 1828, Trương Đăng Quế giữ chức Quản văn thư pḥng là nơi mà mỗi thuộc viên ở đấy đều hiểu rất cặn kẽ t́nh h́nh tuyển bổ quan lại, nhất là vào dịp cấc nhắc một số vị trí chủ chốt cho xứng tầm với Phủ Vâng - Mệnh - Trời (Thừa Thiên)

 

* * *

 

Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bài vè nọ ứng vào "ông lôgích" Phan Khôi khi ông ta tự phong làm Ngự sử trên văn đàn, viết báo Sông Hương cho Lê Tràng Kiều ở Huế.  Suy luận như thế không phải là kém thuyết phục, có điều người ta quên mất bài vè nọ thuộc "ca sinh tư" tức là không thể chỉ nghiên cứu một ḿnh tính hay căi và coi nó ra đời cùng thế hệ với báo Sông Hương là đă làm... thất thoát của nó hơn 100 tuổi.

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吴文赖老师  <photo>

(Thái Trọng Lai  太重来)

Tháng 6, 2006, Việt Nam

 

 

 

 

 

 

 

Bài vở xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org