KHAIMINH.ORG

 

QUYỀN HUYNH THẾ PHỤ

HĂY LƯU Ư VỀ CẤU TRÚC NGỮ PHÁP

 

中国,万里长城Photography by Thang N. Diep 葉能胜 KHAIMINH.ORG

 

 

 

 

请阅读吴文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

Bốn chữ QUYỀN HUYNH THẾ PHỤ được dùng tràn lan từ bao đời nay và thường bị lắm "HUYNH" lạm hiểu là "anh có quyền thay cha" trong trường hợp cha vắng mặt dài hạn hay vĩnh viễn.

Sở dĩ cụm từ nọ bị hiểu lầm nghiêm trọng và dai dẳng như vậy là do sực tác động lâu dài, khó lay chuyển nổi của tâm lư thông thường.  Nói cho thẳng thắn, việc hiểu lầm bấy lâu thường xuất phát từ thói tham lam, vị kỷ.

Bất cứ ở gia đ́nh nào, đứa "Huynh" cũng là kết quả mong đợi vào giai đoạn cha mẹ hăy c̣n đang say mùi yêu đương, cái xấu cái dở của nhau đang c̣n tiềm ẩn, chưa đủ nghiêm trọng nên chưa kịp phát hiện, mà dẫu có phát hiện th́ cũng dễ dàng thông qua.

Mặc khác, trong giai đoạn "tập làm cha mẹ" ấy, người ta vẫn c̣n sót lại tâm lư trẻ con của bản thân, coi con là thứ "búp bê sống", mặc t́nh trang trí bằng quần áo, đồ chơi... để thỏa măn thứ "tṛ chơi" cuối cùng của đời họ.  Khi mua sắm như thế người ta "hạ gục" tính tiết kiệm bằng ư nghĩ "đứa lớn dùng xong để dành cho đứa nhỏ".  Vô h́nh trung, tâm lư gia trưởng đă có dịp nẩy mầm, tạo ra sự cố ư hiểu sai cụm từ trên.

Những đứa em ra đời sau đó không được hưởng "phép lợi thế: như anh chúng.  Đấy là chưa kể chúng c̣n bị căm ghét khi "phá hoại" thành quả dành dụm, cản trở sự phát triển kinh tế gia đ́nh do chúng đau ốm hay gặp tai nạn.  Lắm đứa c̣n gặp phải cha hay mẹ mắc chứng tâm thần "sadism", mỗi khi quan sát, theo dơi con, chỉ chăm chăm đăi lọc lấy cái xấu, hắt bỏ các cái tốt.  Sự thiên vị đó "mưa dầm thấm đất" tạo ra thành kiến cứng nhắc, đè bẹp rồi làm thui chột ư thức công bằng.

Khi người cha qua đời, người mẹ mất phương hướng cậy dựa nên gởi hết niềm tin vào đứa lớn, vào lúc đứa này đă đủ sức nhận ra t́nh h́nh đó để cậy thế gia trưởng, tỏ vẻ độc tài, lại c̣n có thêm sự nhân nhượng của người mẹ khiến t́nh h́nh ngày càng tệ hại hơn, đặc biệt là khi xuất hiện nàng dâu trưởng, một đồng minh đắc lực có mặt đúng lúc "Huynh" coi trọng sự vun vén riêng tư (t́nh h́nh này có vẻ tỷ lệ thuận với tầm vóc di sản?).  Đến lúc ấy, mấy chữ kể trên biến thành một thứ "hiến pháp" trong gia tộc, gia đ́nh.

Cụm từ trên đă đến lúc cần được hiểu lại cho thật đúng với ngữ pháp:

Trong ngữ pháp chữ Hán, "quyền làm anh" phải gọi là "huynh quyền" chứ không phải "quyền huynh".  Cũng theo cấu trúc ngữ pháp như thế, quyền làm cha được gọi là "phụ quyền", quyền đàn bà được gọi là "nữ quyền", quyền làm dân gọi là "dân quyền", quyền b́nh đẳng gọi là "b́nh quyền"... chứ không một ai gọi trái khoáy là "quyền phụ", "quyền nữ", "quyền dân", "quyền b́nh", v.v... bao giờ.

Có sẵn ḷng hiểu đúng cấu trúc ngữ pháp chữ Hán như thế th́ may ra người ta mới hiểu đúng bốn chữ kể trên.

Thực ra, chữ QUYỀN trong cụm từ này không hề chỉ quyền hành, quyền lợi, quyền lực, quyền thế, .v.v... mà chỉ có nghĩa là QUYỀN BIẾN (là động từ chứ không phải danh từ).

Quyền biến là nói tắt cụm từ "ngộ biến ṭng quyền" của Mạnh Tử (372 - 289 trước Công Nguyên).  Nó xuất phát từ mẩu chuyện sau:

Nguyên Nho giáo quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân" (trai gái kẻ trao người nhận không được gần kề).  Vế tiếp theo là "điện nhi thủ chi" (đặt ở đấy mà lấy).  Ngụ ư cụ thể ở đây là nam nữ không được đụng đến tay nhau (dễ bị "nhân điện" dẫn tới hành vi bản năng trái với đạo lư).  Thế là có người "hỏi gay" (vấn nạn) Mạnh Tử:  "Nếu chị dâu rơi xuống giếng th́ phải làm sao?"  Mạnh Tử đáp "Xử thường chấp kinh, ngộ biến ṭng quyền" (cư xử lúc b́nh thường th́ chấp hành đạo lư, gặp tai biến th́ tạm theo cách làm cần thiết của t́nh thế).

Suy luận theo tinh thần ấy của Mạnh Tử th́ QUYỀN HUYNH THẾ PHỤ có nghĩa là "tạm thời dùng anh thay cha" (khi... ngộ biến).  Người làm anh trong trường hợp này phải đặt nặng vấn đề trách nhiệm hơn quyền lợi, phải gánh vác mọi việc của cha để lại, c̣n về mặt t́nh nghĩa th́ anh vẫn măi là anh, em vẫn măi là em chứ không hề có chuyện đột xuất chuyển t́nh anh em ra đạo cha con được.  Và đă là t́nh anh em th́ phải giữ cho đúng theo giáo điều "huynh hữu đệ cung" tức là anh th́ nhất thiết phải coi em như bạn (HỮU) đồng vai phải lứa, nhưng em phải kính trọng (CUNG) anh như cư xử với bề trên, chứ không được lợi dụng t́nh anh thân mật mà bỗ bă, xô bồ.

Chữ QUYỀN này cũng thường bị hiểu không trọn vẹn nghĩa gốc khi người ta đặt nó trước tên gọi chức vụ.

Chẳng hạn như Hồ Chủ tịch đi dự hội nghị Fontainebleau ở Pháp năm 1946, theo hiến pháp th́ chính Phó Chủ tịch phải thay Chủ tịch để xứ lư việc nước, nhưng do t́nh h́nh đặc biệt bấy giờ nên cụ Huỳnh Thúc Kháng lại được chọn giao chức vụ Quyền Chủ tịch.  Nếu gọi cho đủ chữ và đúng ngữ pháp th́ phải gọi là Quyền Bộ trưởng Nội vụ thế Chủ tịch và rút gọn thành Quyền Chủ tịch.  Theo phép rút gọn này, cùm từ quyền huynh thế phụ cũng có thể rút gọn hợp lệ thành quyền phụ.

Trong tinh thần ấy, Quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng tuy xử lư mọi nhiệm vụ của Chủ tịch nhưng trên nguyên tắc vẫn chỉ hưởng bậc lương dành cho Bộ trưởng Nội vụ chứ không phải hưởng lương Chủ Tịch.

Đă đến lúc cần đến sự dũng cảm để hiểu đúng ngữ pháp cụm từ QUYỀN HUYNH THẾ PHỤ, không nên về hùa, vô t́nh hay cố t́nh dốt hiểu sai ngữ pháp để thỏa măn quyền lợi cá nhân như t́nh trạng thường diễn ra trong các gia tộc từ bao đời nay.

Dường như đă có không ít "Huynh" từng nghĩ đến việc "thế phụ" một cách cực kỳ sai trái về mặt đạo lư.  Họ chỉ đau đớn qua loa cho sự mất mát cha, c̣n th́ cảm thấy tràn đầy hân hoan khi sự mất mát ấy đă đem lại cho ḿnh... bước thăng tiến vẻ vang, họ tự cho ḿnh là "Thái tử" đă đến ngày kế vị ngai vàng và thầm nghĩ rằng từ nay th́ ngay cả mẹ ḿnh cũng sắp phải tuân lệnh ḿnh răm rắp cho thật đúng đạo tam ṭng, hệt như trong quá khứ bà ta đă từng phải khép nép trước oai cha như vậy.

Tôi nghĩ rằng trong t́nh h́nh hiện nay, khoảng cách giữa việc hiểu sai theo tập quán truyền đời với việc hiểu đúng theo ngữ pháp cố định xem ra c̣n quá xa nhau.  Việc hiểu cho đúng ư nghĩa cụm từ "quyền huynh thế phụ" so ra có lẽ c̣n khó hơn việc thuyết phục được Ṭa án Giáo hội Thiên Chúa thời trung cổ chịu hiểu đúng thuyết "Quả đất quay" của nhà bác học Copermic (1473 - 1543).


(Dựa theo gia phả họ Ngô)

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吴文赖老师  <photo>

Việt Nam, 2006

 

 

 

 

 

 

 

Bài vở xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org