Đến
thời điểm này đă có rất nhiều
người hùa nhau hiểu sai cụm từ trên,
quả thật là chuyện rất đáng...
cười ra nước mắt. Họ tin
vững chắc rằng ở đời ai cũng
như ai, "học cũng tốt, không học
cũng tốt" để xuyên tạc ư
người nói - vua Tống Huy Tông - và họ đă vô
t́nh bào chữa đầy thiên vị cho những
kẻ lười nhác học hành.
Với
cương vị hoàng đế, Tống Huy Tông (1101 -
1125) là một phần tử hăng hái bảo tồn
và phát huy Nho học, lại được sự góp
công sức của các đại gia Nho học như
Tŕnh Chu (Tŕnh Hạo, Tŕnh Di và Chu Hi) là những thạc
nho vốn được xếp ngang với Khổng
Mạnh nên từ lâu, giới nghiên cứu đă
nhất trí coi Tống Nho là thành phần chủ lực
của nền văn hiến Trung Quốc suốt hàng
ngh́n năm qua, ngay cả khi dân tộc họ bị các
ngoại bang như Liêu, Kim, Nguyên, Thanh lần
lượt đô hộ qua nhiều thế kỷ.
Ta cần
hiểu đúng và đủ ư kiến của Tống
Huy Tông gởi gắm trong bài "Khuyến học
văn". Bài này có nội dung như sau:
- Học là
tốt (hay) không học là tốt? Kẻ có học
như lúa như thóc, kẻ không học như rác
như cỏ. Như lúa như thóc hề!
Lương tốt của nước, báu lớn
của đời. Như rác như cỏ
hề! Kẻ cày căm ghét, kẻ bừa bực
bội. Đến ngày úp mặt vào tường (ư nói
mù mờ không nh́n nhận được ǵ trên
đời) mới hối hận về việc
ấy (việc không học) th́ đă già mất
rồi!.
(Học dă
hảo? Bất học dă hảo? Học
giả như ḥa như đạo, bất học
giả như cảo như thảo. Như ḥa
như đạo hề! Quốc chi tinh
lương, thế chi đại thảo. Như
cảo như thảo hề! Canh giả tăng
hiềm, sừ giả phiền năo. Tha nhật diện
tường, hối chi dĩ lăo - Khuyến học
văn)
Người
nào đă đọc đến đây có lẽ không c̣n
duy tŕ quan niệm "bất học dă hảo"
được nữa. Tuy nhiên, quan niệm
học để đỗ đạt làm quan, cho vinh
thân ph́ gia, "một người làm quan, cả
họ được nhờ", v.v... xét ra c̣n tệ
hại hơn quan niệm "bất học dă
hảo" nhiều. Đỗ đạt với làm
quan là hai phạm trù riêng biệt, không hề có liên quan
nhân quả như nhiều người
tưởng. Xin đơn cử một bằng
chứng khá cụ thể: tác giả truyện
Kiều là Nguyễn Du đời Gia Long thi hỏng
trường tư kỳ thi Hương (chỉ
đỗ tú tài) nhưng lại làm quan đến
Nhất phẩm (chiếm một địa vị
trong tứ trụ), được phong đến tước
Hầu (Du đức hầu) được phái đi
sứ, tham quan danh lam thắng cảnh gần khắp
Trung Quốc ngót hai năm trời nhưng cuộc
sống vật chất của ông th́ khó thể h́nh dung
là... vinh thân ph́ gia cho được:
Mười
miệng đói kêu ngoài cơi Bắc,
Một ḿnh
bệnh rụi ở thành Đông.
(Dịch thơ
chữ Hán)
Trái lại,
Nguyễn Tường Phổ (ông nội các nhà văn
lớn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam)
đỗ đầy đủ cả thi Hương,
thi Hội, thi Đ́nh thời Thiệu Trị nhưng làm
quan suốt đời cũng chỉ đạt
đến Lục phẩm, giữ chân Tri huyện
ở một miền nghèo nàn lạc hậu (Cẩm
giàng - Hải Dương) và các nàng dâu của ông
cũng phải thức khuya dậy sớm, tảo
tần nghề hàng xén, hàng xáo nuôi con. Các nhà văn
Nhất Linh, Thạch Lam, đă đưa những h́nh
ảnh ấy vào nhiều đoạn văn
đặc sắc.
Lợi ích
thiết thực của việc học là nó đem
lại cho người ta đủ điều
kiện để h́nh thành một nhân cách giá
trị. Người học cao, đọc
nhiều sẽ nâng tầm hiểu biết, cư
xử với đồng loại khá hơn.
Một đứa bé thực sự ham học th́ dù có
sống trong nhung lụa nuông chiều cũng sẵn
sàng dậy sớm thức khuya như bao kẻ lao
động b́nh thường, c̣n nếu sống trong
hoàn cảnh thiếu thốn chật vật nó cũng
ngẩng cao đầu dự cuộc ganh đua
với mọi kẻ đầy đủ sung
sướng. Thậm chí kẻ chăm học th́
dù tật nguyền hay ốm đau thập tử
nhất sinh họ cũng vẫn sẵn sàng thi thố
tài năng cùng kẻ lành lặn, có sức lực sung
măn. Nói chung, việc học hành chân chính sẽ làm
con người bớt tham lam; vị kỷ và rèn
được tính tự trọng, tự tin, có
nghị lực mạnh mẽ, có vốn tri thức
phong phú, có tâm hồn cao đẹp. Chỉ
những kẻ mượn việc học làm chiếc
thang leo cao, hái nhiều mới không tách rời nổi
cuộc sống bản năng, mới phát triển thú
tính thấp hèn, tham lam hưởng thụ, mưu tính
chuyện vinh thân ph́ gia mà thôi.
Ở tầm
vĩ mô, tri thức do học tập đem lại cho
người dân là thứ tài sản quư giá, luôn sinh
lợi cho tổ quốc. Chính v́ thế, nhà
cầm quyền Trung Quốc đời Minh buộc các
nước thần phục phải cống nạp
định kỳ một số lượng nhân tài
(chính Hồ Nguyên Trừng - con trai Hồ Quư Ly, bị
bắt làm tù binh - đă nghĩ ra cách cải tiến
súng đại bác cho quân đội Trung Quốc ngay
từ đầu thế kỷ 15) và ngày nay, các
nước đă phát triển luôn tạo điều
kiện thuận lợi để thu hút số
người có học lực xuất sắc ở các
nước đang phát triển đến phục
vụ cho nước họ (dư luận coi đây là
vết thương trí mạng - chảy máu chất xám
- làm ngắc ngoải nền kinh tế của
nhiều nước nhỏ). Đấy là bằng
chứng cụ thể về gía trị thực
thụ của học vấn.
Để đánh
thức ḷng hiếu học đúng thời kỳ phù
hợp của nó, người xưa đă sáng suốt
nhắm vào lứa tuổi c̣n thơ, với tuổi
ấy th́ chỉ có thể "dụ" chứ
chưa thể "giảng", v́ vậy, sách Ấu
học quỳnh lâm (rừng văn học của
tuổi ấu thơ) phải "dụ" trẻ
nào là "trong sách có gái... siêu đẹp" (thư
trung hữu nữ nhan như ngọc), nào là "trong
sách có sẵn nhà vàng" (thư trung tự hữu hoàng
kim ốc), v.v.. những lời "dụ" trẻ
ấy chỉ nhằm mục đích giúp trẻ
vượt những khó khăn ban đầu thế
nhưng có những kẻ ác ư lại thường
mượn đó để dè bỉu, bôi nhọ
việc giáo dục đào tạo của người
xưa, thủ đoạn nhỏ mọn ấy
thật rất đáng trách.
Vậy ta
phải "cập nhật hóa" quan niệm của
Huy Tông trong bài văn Khuyến học nọ là:
- Kẻ không
học là lực cản tệ hại cho sự phát
triển. Chẳng ai dám mong ở họ ư thức
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để
đổi mới đất nước, nâng cao
đời sống người dân
được. Và một khi người dân coi
nhẹ vốn liếng tri thức, đề cao
bợ đỡ kẻ vô học th́ nhất
định quốc gia xă hội ấy chỉ có
được những giá trị ảo.
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吴文赖老师 <photo>
Việt Nam, 2006
|