Hiểu một cách đơn giản
th́ âm đức là những ơn huệ kín đáo
ngầm để lại, không ai biết. Điển
h́nh là những nhà hảo tâm giấu tên (chỉ ghi
địa chỉ trong bản phương danh quyên
góp). Săn sóc người gặp nạn, che
chở kẻ bị truy đuổi hăm hại, cứu
giúp kẻ khó khăn, đài thọ kinh phí xây dựng
công tŕnh công cộng v.v.. thường được
coi là hành vi tích lũy âm đức.
Người phương Đông quan niệm kẻ
tích lũy nhiều âm đức vừa bù đắp
được những điều thất
đức của ḿnh cùng các đời trước
lỡ tạo ra trong quá khứ, phần c̣n thừa
sẽ dành lại cho con cháu hưởng thụ.
Kinh nghiệm cuộc sống có vẻ ứng
nghiệm chân lư này tuy rất khó giải thích cặn
kẽ. Ngôn ngữ dân gian cũng phát biểu nôm
na: "Trồng cây đức để con
ăn..."
Kẻ gây loại tai họa làm trái đạo
hiếu sinh * (chẳng hạn buôn bán hoặc sử
dụng heroin, xúi giục gây loạn lạc, bất
ổn để thủ lợi, v.v..) th́ dù có lọt
được lưới pháp luật cũng bị
"cơi âm" xử lư bằng cách truất phần âm
đức của ông cha họ dành lại cho họ.
Các triều đại ngắn ngủi trong lịch
sử có lẽ minh chứng khá hùng hồn cho sự tác
động của âm đức. Dù giới sử
quan có "bẻ công ng̣i bút, bóp méo sự thật th́
cứu cánh cũng rất sẵn sàng tố cáo
phương tiện (đơn cử trường
hợp nhà Đinh).
Nhận thức vai tṛ của âm đức,
Tư Mă Quang ** (1019 - 1086) đă viết trong sách gia
huấn: "Dồn vàng dành cho con cháu, chưa
chắc con cháu giữ nổi, dồn sách dành cho con
cháu, chưa chắc con cháu đọc nổi, không
bằng dồn âm đức trong cơi mờ mịt
để làm kế hoạch lâu dài cho con cháu"
(Tích kim dĩ tử tôn, tử tôn vị tất năng
thủ, tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị
tất năng độc; bất như tích âm
đức u minh minh chi trung dĩ vi tử
trường cửu chi kế - Tư mă Ôn công gia
huấn)
Quan niệm Tư Mă Quang có giá trị nhân văn
khá tích cực. Dù người ta có phủ nhận
"kế hoạch lâu dài" này của ông, phủ
nhận sự tồn tại và tác động của
âm đức đi nữa th́ chỉ việc
"lặng lẽ làm ơn" cũng đă đem
lại niềm vui rất nhiều (Vi thiện tối
lạc - Ngạn ngữ)
Kẻ làm điều thiện sẽ tự
cảm thấy phẩm chất làm người của
ḿnh được nâng cao thêm, từ đó, bản
năng loài vật ở giai đoạn hái lượm
thời nguyên sơ đă bị đẩy lùi lại
để phục tùng trí tuệ, tâm hồn của con
người trong giai đoạn văn minh phát
triển.
Nếu chịu khó quan sát thẳng thắn
chừng vài ba thế hệ ở một gia tộc nào
đó trong lịch sử hay ở quanh ta, dấu
vết biểu hiện của âm đức rất khó
tẩy xoa, phủ nhận. (Tôi cho rằng
trường hợp của Hilter là minh chứng
đủ thuyết phục!)
Triết lư Phật giáo tŕnh bày thuyết âm
đức trong khuôn khổ thuyết nhân quả, luân
hồi, nghiệp báo, v.v.. và có lẽ đây là
điểm đồng qui cụ thể của hai
luồng tư tưởng lớn Nho - Thích.
Kẻ phủ nhận thuyết âm đức
thường v́ những lư do thực dụng nông
nổi trong khoảnh khắc hoặc do chưa tích
lũy đủ kinh nghiệm sống để
thừa nhận tính quy nạp, tính mặc khải
rất đặc biệt của nền khoa học
phương Đông.
Với đà phát triển mạnh mẽ của
khoa điện tử, chắc là trong tương lai
không xa, nền khoa học huyền bí của
người xưa - trong đó có đối
tượng âm đức - sẽ được chính
xác hóa để hoàn toàn đứng vào hàng ngũ khoa
học ứng dụng.
* Đạo hiếu sinh: người xưa quan
niệm thượng đế hiếu sinh nên ban
cho muôn loài tràn trề sức sống để phát
triển khắp nơi (kẻ chấm dứt sự
sống là vi phạm đức hiếu sinh của
thượng đế!)
** Tư Mă Quang:
Nhân vật vĩ đại trong lịch sử
Trung Quốc. Ông tài kiêm văn vơ, đỗ
Tiến sĩ, làm quan đến Nhất phẩm,
tước phong Ôn quốc công nên thường
được người đời gọi là Tư
mă Ôn công.
Bộ sử Tư trị thông giám
của ông được giới nghiên cứu xếp
hạng chỉ đứng sau sử kư Tư Mă Thiên.
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吴文赖老师 <photo>
Việt Nam, 2006
|