TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
LỚP CAO HỌC KINH TẾ
2005
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI XĂ HỘI VIỆT NAM
I/ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO :
1. Vấn đề con
người và đào tạo con người
1.1
Quan niệm về con
người
- Khổng Tử cho rằng
trong xă hội có hai hạng người. Đó là
người quân tử và kẻ tiểu nhân. Nho gia luôn
đề cao mẫu người quân tử và coi
thường kẻ tiểu nhân.
- Khổng Tử quan
niệm: Sinh ra là người quân tử th́ măi măi là
người quân tử,
c̣n sinh ra là kẻ tiểu nhân th́ măi măi là kẻ
tiểu nhân, là
người quân tử có thể làm những
điều bất nhân,
nhưng sinh ra là kẻ tiểu nhân th́ đừng
mong ở họ có được những hành
động có nhân.
1.2
Bản tính con người.
- Về vấn đề
bản tính con người th́ các nhà Nho có nhiều ư
kiến khác nhau, không
thống nhất với
nhau.
- Là một nhà triết
học, nhà giáo dục
lớn, lúc sinh thời
Khổng Tử cho rằng Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị
đạo, tu đạo
chi vị giáo. Mạnh Tử cho rằng Nhân chi sơ
tính bản thiện. Con người ta sinh ra ai cũng
có cái mầm thiện,
bởi v́ ai cũng có cái tâm. Tuân Tử cho rằng
bản tính con người là ác, nguyên nhân của cái ác
là do ái dục - ham muốn dục vọng, đi t́m sự thoả măn
dục vọng, sinh lư.
Cho nên nếu con người hoạt động theo
bản tính tự nhiên th́ sẽ dẫn đến
tước đoạt,
vô luân. V́ vậy cần phải có lễ nghĩa, khuôn phép, h́nh phạt để giáo dục ngăn
ngừa.
1.3 Quan niệm của Nho giáo
về các mối quan hệ con người trong xă
hội
- Các nhà Nho đă rất quan
tâm xây dựng năm mối quan hệ chủ yếu
của con người trong xă hội như: Quan hệ
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, trưởng - ấu, bằng - hữu.
a. Mối quan hệ vua - tôi.
- Thời Khổng -
Mạnh, quan hệ vua -
tôi là quan hệ hai chiều,
có đi có lại v́ sự nghiệp chung là trị
nước an dân. Khổng Tử đặt ra vấn
đề vua ra vua, tôi ra
tôi.
- Theo Mạnh Tử: Quan hệ vua - tôi
phải lấy cái nghĩa (Quân thần hữu
nghĩa).
b. Mối quan hệ cha - con.
- Đây là mối quan hệ
máu mủ, ruột
thịt gần gũi nhất trong gia đ́nh. Mối
quan hệ này luôn luôn được các nhà Nho khẳng
định: Cha từ,
con hiếu.
- Theo Mạnh Tử: trong quan
hệ cha - con phải lấy t́nh thân (Phụ tử
hữu thân).
c. Quan hệ vợ -
chồng
- Theo Mạnh Tử th́
vợ - chồng phải tôn trọng nhau (Phu - phụ
hữu biệt) .
- Nhưng Nho gia lại
rất đề cao vai tṛ vị trí của
người chồng, là
người giữ vai tṛ chủ yếu trong gia
đ́nh, c̣n người
vợ là thứ yếu.,
luôn ở địa vị phụ thuộc. Cho
nên Phu xướng phụ tuỳ.
- Càng về sau, nhất là từ Đổng
Trọng Thư (thời nhà Hán) trở đi, mối quan hệ bất b́nh
đẳng giữa vợ và chồng càng tăng, người vợ c̣n
phải chịu ràng buộc bởi: Tam ṭng: Tại gia
ṭng phụ, xuất giá
ṭng phu, phu tử ṭng
tử.Tứ đức: Công,
dung, ngôn, hạnh.
d. Quan hệ anh – em
- Mạnh Tử cho rằng:
Anh em trong gia đ́nh phải có trên, có dưới, trước sau thuận hoà và phải tôn
trọng quyền huynh thế phụ-tôn trọng
quyền anh trưởng trong gia đ́nh. Anh,
chị thay cha,
mẹ nuôi dạy các em trong gia đ́nh, điều hành mọi công
việc trong gia đ́nh khi cha,
mẹ mất.
- Trưởng ấu hữu
tự - anh nói em nghe, em
phải luôn vâng lời anh,
chị, nghe theo
lời chỉ bảo của anh, chị th́ gia đ́nh anh em mới hoà
thuận và vui vẻ.
e. Quan hệ bạn bè
- Chuẩn mực của các
mối quan hệ bạn bè là chữ tín: bằng
hữu hữu tín. Nhờ có chữ tín mà làm cho bạn
bè vượt qua khó khăn, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, làm cho t́nh bạn măi măi
bền vững.
- T́nh bạn theo quan niệm
của Nho giáo được xây dựng không dựa
trên tiền tài, danh
vọng, giàu sang, phú quư, mà là nghĩa t́nh. Họ kết bạn
với nhau để học tập lẫn nhau, động viên, giúp đỡ lẫn nhau
để vượt qua mọi khó khăn, hoạn nạn của
cuộc sống.
- Khổng Tử cho rằng:
Quân tử học đạo th́ yêu người, tiểu nhân th́ dễ
khiến. Nhưng ông cũng có quan niệm: Đề
cử người ngay thẳng lên trên hạng người cong queo th́ dân
phục ṭng và theo Khổng Tử muốn cho dân cung
kính, trung thành và khuyên nhau làm điều thiện th́ :
xử với dân nghiêm trang th́ dân cung kính.Hiếu
thuận (với cha mẹ, người trên ), từ ái
(với người dưới )th́ dân trung
thành.Cất nhắc người tốt, dạy dỗ người
không tốt th́ dân khuyên nhau làm điều thiện.
1.4 - Quan niệm của Nho
giáo về nhân,
lễ, nghĩa, trí,
tín
a. Nhân:
Nhân là chuẩn mực
để đánh giá mối quan hệ giữa
người với người, nên nhân là chỉ đức hạnh của
con người, là
điểm khởi đầu và là trung tâm của
triết học Nho giáo.Khổng Tử rất trọng
Lễ, nhưng ông c̣n trọng Nhân hơn nữa v́ ông
cho là Lễ chỉ là ngọn, Nhân mới là gốc,
Lễ là chính sách, Nhân mới là tinh thần.Khổng
Tử bảo : “ Người không có đức nhân th́
lễ mà làm ǵ?” ( Nhân nhi bất nhân, như lễ hà?Nhân
nhi bất nhân, như nhạc hà?) Nhân gồm chữ
nhị là hai và chữ nhân là người, là t́nh
người này đối với người khác.Không
có t́nh người th́ làm sao ḥa hợp với
người khác được, người này
người khác, giai cấp này giai cấp khác chỉ
coi nhau như kẻ thù, người trên ức hiếp
người dưới, người dưới
chống đối người trên, cho nên Khổng
Tử bảo :” Nhân gỉa tất hữu dũng”,
nhưng “dũng gỉa bất tất hữu nhân”
b. Lễ:
Thời đại của
Khổng Tử các nước tranh giành vương
bá, kỷ
cương, phép
nước, trật
tự xă hội, lễ -
nhạc hư hỏng.
- Khổng Tử thấy
cần phải khôi phục lại lễ, bởi đó là đạo
đức của con người từ vua cho
đến bề tôi: vua ra vua,
tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con, để cho thiên hạ
hữu đạo, xă
hội yên ổn...
- Như vậy là sau nhân, các nhà nho đă đề cao
vai tṛ của lễ, dùng
lễ để giáo dục con người cho có
đức nhân.
c. Nghĩa:
Là hành động theo đúng
đạo lư làm người,
là gốc của đạo lư làm người.
Khổng Tử luôn nhấn mạnh vai tṛ của nghĩa, nghĩa không thể thiếu
đối với con người.
- Thấy việc nghĩa mà
chẳng làm ấy là người chẳng có khí
dũng, thấy việc
đáng làm để giúp người thế mà không
chịu ra tay,
người như vậy là nhát gan không xứng
đáng mặt người quân tử. Người quân
tử là người thấy việc nghĩa là làm.
Thấy món lợi mà nghĩ tới điều
nghĩa mà chẳng phạm.
d. Trí:
Là sự hiểu biết sâu
rộng, người có
trí sẽ không bị lầm lạc, không bị nghi hoặc, không bị nghi lầm.
Người có trí mới phân biệt được
đúng sai, điều
hay lẽ phải, mới
có sự cư xử và hành động đúng theo
đạo làm người.
- Khổng Tử nói:
Những lời dèm pha của kẻ độc
hiểm thấm thía về lâu,
những lời vu cáo của kẻ ác làm cho
đau đớn dường như banh da xẻ
thịt, trước
những lời ấy ḿnh đừng cảm
động mà nghe theo,
đó gọi là có trí minh bạch sáng suốt...và
phải đích thân thông suốt các viên hữu ti (
dưới quyền ḿnh ), tha tội nhỏ cho họ,
đề bạt những người hiền tài. Trí
(sáng suốt) là biết người.Đề bạt
người chính trực lên trên người cong queo th́
có thể khiến cho người cong queo hóa ra chính
trực.
e. Tín:
Đức tín là một
phẩm hạnh của con người mà Nho giáo luôn chú
ư giáo dục. Trong mối quan hệ giữa con
người với con người, đức tín thể
hiện sự giữ lời hứa, lời giao ước
trước sau như một. Lời nói với
việc làm thống nhất với nhau, từ đấy gây
được niềm tin cho con người.
- Khổng Tử rất
đề cao vai tṛ chữ tín,
nhất là đối với người cầm
quyền rất quan trọng. Ông cho rằng: dân tin, dân yêu, dân ghét, dân
ủng hộ hay không ủng hộ cũng từ
chỗ chữ tín mà ra. Khổng Tử cho rằng
đối với người cầm quyền th́
phải làm được ba điều: Túc
thực, túc binh, thành tín.
- Như vậy học thuyết
Nho giáo luôn chú ư giáo dục con người trong xă
hội về nhân - lễ - nghĩa - trí - tín, và tất cả đều
xuất phát từ nhân,
hướng về nhân và để làm
điều nhân.
2. - Về đào tạo con
người
2.1.- Đối tượng
đào tạo
- Học thuyết Nho giáo là
học thuyết chính trị - xă hội, chỉ tập trung giáo
dục con người về đức nhân, song đối tượng
lại rất rộng. Đối tượng chung mà
Nho giáo đào tạo là: ai muốn học đều
được dạy. Khổng Tử khẳng
định: Hữu giáo vô loại, và ông cũng là người đầu tiên
mở trường tư dạy học cho mọi
hạng người để đào tạo những
con người lương thiện, có lễ nghĩa,
nhất là đào tạo một hạng sĩ quân
tử có nhân, trí, dũng
để làm quan giúp nước . Ông dạy đủ
lục nghệ :lễ,
nhạc, xạ, ngự, thư, số
như chương tŕnh các trường công.
Chúng ta nên nhớ chữ
học của Khổng Tử có nghĩa là học
đạo học cách cư xử, cách làm người
trước hết, rồi mới tới văn,
tới những kiến thức cần thiết:
“ Đệ tử nhập
tắc hiếu, xuất tắc để, cẩn nhi
tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân; hành hữu dư
lực, tắc dĩ học văn”. ( Con em trong nhà th́
hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài th́ kính
nhượng bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói
mà thành thực, yêu
khắp mọi người mà gần gũi
người nhân đức; làm như vậy rồi mà
c̣n dư sức th́ học văn) ( tức thi – môn
ăn nói ; thư – sử đời trước;
lễ –các thể chế, nghi lễ ; nhạc ;
dịch…). Khổng tử biết là trong xă hội có
nhiều người xấu, nhưng cách xử sự
của ông vừa nhân vừa trí. Ông bảo : “ Không tiên
liệu rằng người ta gạt ḿnh, đừng
ức đóan rằng người ta không tin ḿnh,
nhưng gặp những người như vậy là
ḿnh biết được ngay, như vậy là
hiền đấy ! “Ông ghét một số người
như bọn bẻm mép lợi khẩu, bọn
gỉa đạo đức làm bộ cao
thượng, “ ghét
người nói điều xấu của kẻ khác,
ghét kẻ dưới mà hủy bang người trên,
ghét kẻ dũng cảm mà vô lễ, ghét người
qủa cảm mà cố chấp, ghét kẻ bốc lột người khác
để làm giàu “.Nhưng ông cũng khuyên không nên ghét
bỏ ai thái quá, nhất là kẻ bất nhân, v́ không cho
họ cơ hội để ăn năn, gạt
bỏ hẳn ra th́ họ sẽ nổi lọan.Và ông
khuyên người ta phải khoan hồng, nhất là
những kẻ ở địa vị cao.
Trong hơn ba mươi
năm ông đă đào tạo một số môn sinh có ít
nhiều tài đức, có thể ra làm quan
được, và đă có năm sáu ngựi lănh
chức vụ ở triều đ́nh. Ông nhận
định khả năng đặc biệt của
mỗi người để gặp cơ hội th́
dùng :
Đức
hạnh có : Nhan Uyên,
Mẫn Tử Khiêm, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung.
Biện
luận : Tể Ngả, Tử Cống.
Chính
sự : Nhiễm Hữu, Qúy Lộ.
Văn
học : Tử Du, Tử Hạ.
Vơ
bị : Tử Lộ.
Ngoại
giao : Tử Hoa, Tử Cống.
Như vậy môn sinh của
ông có thể thành lập một nội các, gần thành một
đảng chính trị có chính sách rơ ràng.Trong lịch
sử nhân loài, có lẽ Khổng Tử là người
đầu tiên làm được việc này.
2.2- Mục tiêu đào tạo
con người của Nho giáo
Mục tiêu đào tạo con
người của Nho giáo là xây dựng những
mẫu người lư tưởng của xă hội.
Đó là kẻ sĩ,
đại trượng phu và người quân
tử.
a - Kẻ sĩ:
Người đi học nho
là kẻ sĩ, con
đường vào đời của kẻ sĩ là
phải học, học
giỏi th́ đi thi, thi
đậu th́ ra làm quan để giúp nước
cứu đời,
chứ không phải học chỉ để
biết.
Khổng tử sáng lập tư học
dạy mọi hạng người về sự tu
thân, tề gia ;những người nào có tư cách,
bất kỳ trong giới quư tộc hay b́nh dân, ông
dạy thêm cho lục nghệ để sau này có
thể lănh những trách nhiệm lớn nhỏ trong
việc trị nước.Hạng người đó
dù làm quan hay không làm quan cũng gọi là kẻ sĩ;
nếu có tài đức cao th́ ông gọi là quân
tử.Giai cấp sĩ đó chính là do ông tạo
nên.Khổng Tử nói : “ Người đời xưa
học v́ ḿnh, người đời nay học v́ người”, và “ rất ít người
học ba năm rồi mà không có ư cầu bổng
lộc ”.Học v́ ḿnh nghĩa là học để tu
thân, có ích lợi cho ḿnh;học v́ người là
học để có danh, nhiều người biết
tới ḿnh, chẳng cần ḿnh có thực tài thực
đức.Ông khuyên : “ đừng lo người không
biết ḿnh, chỉ lo ḿnh không biết người.”, “
đừng lo không ai biết ḿnh chỉ mong sao ḿnh có
tài đức để cho người ta biết
đến ”, Không nên
cầu danh mà cũng không được cầu
lợi cầu lộc: “ đừng lo không có chức
vị, chỉ lo không đủ tài đức
để nhận chức vị”, “ kẻ sĩ nào để chí vào đạo
mà c̣n thẹn v́ cái ăn cái mặc th́ chưa thể
đem đạo ra bàn với được.”
Kẻ sĩ đă ra làm quan, nho
giáo phân làm bốn hạng:
1/Hạng trên cả :biết
hổ thẹn về hành vi xấu của ḿnh;đi
sứ bốn phương th́ không làm nhục mệnh
của vua.
2/Hạng thấp
hơn:họ hàng khen là người hiếu, hàng xóm khen
là người để.
3/Hạng thấp hơn
nữa : lời nói nhất định phải tín thực,
hành vi nhất định phải quả quyết.
4/Hạng cuối : khí
độ nhỏ nhen.
Nhiều nhà Nho cho rằng
đă là kẻ sĩ th́ phải luôn trau dồi
đức hạnh,
phải bỏ lợi mà làm điều nghĩa, phải không tiếc tính
mạng, trọng nghĩa lư,
thành kính trong việc tế lễ ;về việc
tu thân giữ đức phải kiên cường, dốc ḷng tin
đạo.Thời phong kiến sĩ được
xă hội thời bấy giờ tôn làm giai cấp
đứng đầu trong xă hội : Sĩ, công, nông,
thương.Tử Tư nói:” người xưa có
nói:nên thờ bậc hiền sĩ như thầy
chứ đâu có nói nên làm bạn với kẻ sĩ”, c̣n
Mạnh Tử th́ nói: “Thiên hạ đều tôn
trọng ba cái này : tước vị, tuổi tác, và
đạo đức.Tại triều đ́nh
tước vị được qúy nhất; ở
làng xóm tuổi tác được trọng nhất; c̣n
xét về việc giúp đời, giáo hóa dân th́
đạo đức được kính nể hơn
cả”.
Như vậy th́ khắp
thế giới, không đâu có bọn áo vải nào
được tôn trọng như kẻ sĩ ở
Trung Hoa. Đó là một
niềm vinh dự cho dân tộc Trung Hoa và công
đầu là của Khổng Tử.
b - Đại trượng
phu
- Đây là những con
người bất khuất,
cứng rắn, là
một trong những mục tiêu đào tạo con
người của Nho giáo để phục vụ cho
giai cấp thống trị. Khổng Tử nhấn
mạnh ư chí bất khuất của người
trượng phu trước phong ba băo táp vẫn
vững vàng, không bị
nghiêng ngả, và có ư chí
kiên định đầu đội trời, chân
đạp đất, nói năng và hành động
một là một hai là hai.
- C̣n Mạnh Tử th́ cho
rằng: Phú quư bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất. Có nghĩa là người trượng phu th́
giàu sang không bị mua chuộc, nghèo khó không hề nản ḷng và uy lực
không bị khuất phục. Chỉ có như vậy
th́ mới xứng đáng là đại trượng
phu.
c - Người quân tử
Quân tử của Nho giáo
thuần chỉ tư cách, không có ư nghĩa về
địa vị:
“Người quân tử mưu cầu
đạt đạo, chứ không mưu cầu
chuyện ăn.người quân tử lo không
đạt đạo chứ không lo nghèo.”
“ Người quân tử khi
khốn cùng th́ cố giữ tư cách của
ḿnh;kẻ tiểu nhân khốn cùng th́ phóng túng làm càn”.
Tư cách và thái độ
người quân tử:
-Chỉ cầu ở ḿnh
không cầu ở người.
-Giữ vững chính
nghĩa, không cố chấp điều tín nhỏ
nhặt.
-Giữ vững tư cách khi
gặp họan nạn.
-Lo không đạt
được đạo chớ không lo nghèo.ăn
gạo xấu, uống nước lă mà thấy
vui;chứ không chịu làm điều bất nghĩa
để được giàu sang.
-Thư thái mà không kiêu
căng.
-Không lo không sợ, v́ tự
xét ḿnh không có điều ǵ đáng xấu hổ,
nghĩ vậy mà lúc nào cũng thản nhiên vui vẻ.
-Nếu có hận th́ chỉ
hận điều này; chết mà không làm điều ǵ
để người khác biết tới ḿnh, khen ḿnh.
-Thân với mọi
người mà không kết đảng, ḥa hợp
với mọi người mà không a dua.
-Nghiêm trang giữ lập
trường mà không tranh với ai.
-Có lỗi th́ không ngại
sửa.
Đức của
người quân tử:
-Có đức nhân, giúp
người làm việc thiện.
-Trọng nghĩa: cứ
hợp nghĩa th́ làm.Lấy nghĩa làm gốc, theo
lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà
nên việc.
-Sửa ḿnh thành người
kính cẩn.
-Chất phác mà văn nhă, hai
phần đều nhau, nếu chất phác th́ quê mùa,
văn nhă quá th́ không thành thực, trọng h́nh thức
quá.
-Hướng lên cao mà mong
đạt tới.
Tài năng và kiến thức
của người quân tử:
-Hiểu rộng, biết
nhiều, làm được nhiều việc, chứ
không phải như một đồ vật chỉ
dung được vào một việc.
-Có thể không biết
những việc nhỏ nhặt, nhưng có thể
đương được việc lớn.
-Tài trí đủ để
trị dân, biết dùng đức để giữ
dân, biết trang nghiêm đối đăi với dân,
biết dùng lễ cổ vũ dân.
Hành vi ngôn ngữ của
người quân tử:
-Thận trọng về
lời nói, mau mắn về việc làm.
-Làm trước điều
ḿnh muốn nói rồi hăy nói sau.
-Thẹn rằng nói nhiều
mà làm ít.
-Sai khiến người th́
không trách bị cầu ṭan.
-Xét người th́ không v́
lời nói của một người mà để
cử người đó ( v́ c̣n xét đức hạnh
ra sao nữa), không v́
phẩm hạnh xấu của người mà không nghe
lời nói phải của người ta.
-Khi trông th́ để ư
để thấy cho minh bạch;khi nghe th́ lắng tai
nghe cho rơ;sắc mặt th́ giữ cho ôn ḥa;diện
mạo th́ giữ cho đoan trang ;nói th́ giữ cho trung
thực;làm th́ giữ cho kính cẩn;có điều nghi
hoặc th́ hỏi han ;khi giận th́ nghĩ đến
hậu qủa tai hại sẽ xảy ra;thấy
mối lợi th́ nhớ đến điều
nghĩa.
Khổng tử nói : “
Người quân tử có điều ǵ không biết th́
không nói bậy.Nếu danh không chính th́ lời nói không
thuận lư, lời nói không thuận lư th́ sự
việc không thành; sự việc không thành th́ lễ
nhạc, chế độ không kiến lập
được; lễ nhạc, chế độ không
kiến lập được th́ h́nh phạt không
trúng;h́nh phạt không trúng th́ dân không biết đặt
tay chân vào đâu ( không biết làm thế nào cho phải
).Cho nên người quân tử đă cùng cái danh th́
tất phải nói ra được (tất phải
thuận lư); đă nói điều ǵ tất phải làm
được.Đối với lời nói
người quân tử không thể ẩu tả
được”.
Có thể nói đạo của Khổng
Tử là đạo của người quân tử. Cho
nên mục tiêu đào tạo con người của Nho
giáo là đào tạo người có đức nhân. Theo
Nho gia th́ người quân tử là mẫu người
lư tưởng nhất,
cao quư nhất của xă hội phong kiến.
Nho giáo cho là đức
hạnh của người quân tử như gío, mà
đức hạnh của người dân như
cỏ.Gío thổi th́ cỏ tất rạp xuống.
II/ ẢNH HƯỞNG TRIẾT
HỌC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XĂ HỘI VIỆT NAM
1- Sự truyền bá Nho giáo
vào Việt Nam
Việt Nam là nước có
quan hệ lâu đời với đất nước
Trung Hoa. Từ hơn 1000 năm Bắc thuộc, nền văn hoá Trung Hoa, đặc biệt là Nho giáo
đă ảnh hưởng rất sâu sắc đến
văn hoá tinh thần của xă hội Việt Nam.
- Nho giáo được
truyền vào Việt Nam từ đời Đông Hán,
đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo
ở nước ta cực thịnh. Những
người đỗ Tiến sĩ được
khắc lên bia đá để ở Văn Miếu.
Việc học Nho và chế độ thi cử cứ
duy tŕ măi, đến
đầu thế kỷ XX th́ chấm dứt (ở
Bắc Kỳ vào năm 1915,
ở Trung Kỳ vào năm 1918).
- Nho giáo truyền vào Việt
Nam cũng tuyên truyền những nội dung cơ
bản của học thuyết Nho giáo như: Tam
cương, ngũ
thường, ngũ luân.
Việc giáo dục của Nho giáo ở Việt Nam
cũng được thể hiện qua các tác
phẩm kinh điển của Nho giáo là Tứ Thư:
Luận Ngữ, Mạnh
Tử, Đại
Học, Trung Dung; và
Ngũ kinh: Kinh Dịch,
Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ và Kinh
Xuân Thu.
2- Ảnh hưởng
của Nho giáo ở xă hội Việt Nam ngày xưa
- Nho giáo đă truyền vào
Việt Nam trên dưới 2000 năm lịch
sử, nó có ảnh
hưởng rất sâu sắc đến văn
hoá, lối sống
của xă hội Việt Nam.
- Lễ đă
được coi trọng: ăn th́ dễ, giữ lễ th́ khó, trên kính dưới
nhường, kính già yêu
trẻ, tiên học
lễ, hậu học
văn... nhờ đó mà các quy tắc lễ nghi, tập quán được
giữ ǵn, để cho
con người tôn trọng thuần phong mỹ tục, thuỷ chung, hiếu thảo, trọng việc nghĩa và
việc trung.
- Ngoài nhân, lễ,
con người Việt Nam cũng rất coi
trọng nghĩa. Người Việt Nam luôn trọng
t́nh, trọng
nghĩa, sống với
nhau có t́nh, có nghĩa; xây
dựng t́nh làng nghĩa xóm...
Tuy nhiên Nho gíao cũng ảnh
hưởng những tư tưởng ở con
người và đất nước Việt Nam.
Trước hết là tư tưởng thiên mệnh
đă thấm sâu vào con người Việt Nam, làm cho con người luôn tin
vào “mệnh trời”, tin
vào ma quỷ ở trên trời. Trời là tối cao, là linh thiêng luôn chi phối con người:
Trời có mắt, không có
trời ai ở với ai.Tư tưởng số
mệnh cũng đă ăn sâu trong con người
Việt Nam
-Tư tưởng tam
cương của Nho giáo cũng đă góp phần vào
sự phân chia xă hội thành đẳng cấp, thứ bậc trên
dưới, mà trong đó
luôn bắt bề dưới phải phục tùng
bề trên một cách mù quáng. Việc phân chia xă hội
theo thứ bậc không chỉ ở vua quan trong
triều đ́nh, mà
cả trong từng gia đ́nh,
làng xóm, cho
đến toàn xă hội đă làm cho tư tưởng
gia trưởng,
độc đoán chuyên quyền, trọng nam khinh nữ
ngự trị.
- Xă hội Việt Nam c̣n
chịu ảnh hưởng tiêu cực của cả
Lễ. Chính lễ đă ràng buộc con người
trong mọi quy tắc, lễ
nghi, cũng như tôn tri
trật tự của xă hội phong kiến.
- Người phụ nữ
Việt Nam c̣n bị cột chặt bởi Tam ṭng và
Tứ đức. Ngày nay những tư tưởng
gia trưởng, độc
đoán, chuyên
quyền, trọng nam
khinh nữ ở một mức độ nhất
định vẫn c̣n ảnh hưởng rất
nhiều trong xă hội.
3- Ảnh hưởng
của Nho giáo ở xă hội Việt Nam ngày nay và
tương lai về sau:
- Một trong những
nội dung giáo dục thành công nhất, có ảnh hưởng sâu
sắc nhất của Nho giáo ở Việt Nam là giáo
dục chữ hiếu. Đây là mối quan hệ hai
chiều, có đi có
lại; trách nhiệm đi liền với nghĩa
vụ, phù hợp với
t́nh người, cũng
như đạo lư làm người, của t́nh phụ tử và
t́nh mẫu tử.Chính v́ vậy mà chữ hiếu
ở Việt Nam rất thiêng liêng và cao cả, nó là lẽ sống của
con người, và nó
đă thấm sâu vào trong từng gia đ́nh, cũng như ngoài xă hội;
nó góp phần xây dựng truyền thống đạo
đức và văn hoá của con người.
Xă hội Việt Nam ngày nay
vẫn c̣n ảnh hưởng của Nho gíao rất
nhiều, và chắc chắn vẫn được xă
hội ta chấp nhận về sau:
Ngũ luân: quân thần-nhân,
phụ tử - nghĩa, phu thê -lễ, huynh đệ-
trí, bằng hữu -tín.
Khổng Tử nói: “ḿnh mà
chính đáng( ngay thẳng, đàng ḥang), dù không ra
lệnh, dân cũng theo, ḿnh không chính đáng, tuy ra
lệnh dân cũng chẳng theo.”ở đây ư muốn
nói quân (tức người cầm quyền)để
xứng đáng làm người trị dân, để
cho thực hợp với danh, phải sửa ḿnh,
tự trách ḿnh, phải học.Ngày nay các cấp chính
quyền vẫn nên theo lối dùng nhân đức làm
gương, hết long phục vụ nhân dân, như
vậy dân mới có ḷng tin, mới yên tâm lao
động sản xuất v́ sự giàu đẹp
của đất nước.Nếu bản thân
trị dân mà không có đạo đức tốt, tư
cách không đàng ḥang, có lối sống đi
ngược luân thường đạo lư th́ làm sao dân
nể?
Muốn cho người khác
tin ḿnh th́ phải thận trọng lời nói, lời
nói phải hợp với hành động:”
người xưa thận trọng lời nói, sợ
sẽ xấu hổ nếu nói mà làm không
được.”Hai đức tín và hành thường
cho đi kèm nhau, Nho giáo rất xem trọng, thử
hỏi không giữ chữ tín với dân th́ làm sao dân tôn
trọng ḿnh?
Khổng Tử nói : “ Ta
muốn các người ǵa được an vui, các
bạn bè tin lẫn nhau,
các trẻ em được săn sóc vỗ
về “ ( lăo gỉa an chi, bằng hữu tín chi,
thiếu gỉa ḥai chi ).Đó là mục đích ngày nay
ḷai người vẫn theo đuổi.
Nếu ai có ḷng muốn tu
tỉnh, xin học ông th́ dù dĩ văng không tốt, ông
cũng thu nhận, tức như trường hợp
một thanh niên làng Hổ ( một làng dân có tiếng là
ác nghịch ) lại xin học, môn sinh có người
không muốn ông nhận, ông bảo : “ Người ta
tiến bộ th́ ḿnh tán thành, hà tất phải nghiêm
khắc thái quá.người ta tự tinh khiết mà mong
được tiến bộ th́ ta tán thành long tinh
khiết của họ bây giờ, chứ không kể
tới dĩ văng của họ”.Đây là một
đức tính mà ngày nay chúng ta cần phải học
hỏi.
Có câu chuyện một
chủ doanh nghiệp nhận một công nhân vô làm, sau
đó có người khác báo đó là một phạm nhân
mới ra tù v́
trước đây có thành tích bất hảo và
đề nghị người chủ doanh nghiệp
đó cho hắn nghỉ việc .Nhưng người
chủ vẫn giữ
lại và nói : “ Người ta đă đến xin
việc làm tức là có ư hướng thiện th́ ta nên
mở cho họ một con đường mới mà
đi, nếu ta mà đuổi họ và các doanh
nghiệp khác cũng làm như vậy th́ vô h́nh trung ta
lại đẩy hắn về lại con
đường tội lỗi khi bị thất
nghiệp, mà hắn biết đi xin việc làm là
một biểu hiện ḷng muốn hướng
thiện rồi “.Và qủa nhiên người công nhân
đó làm việc rất tích cực và ḥan thành xuất
sắc mọi công việc được giao.
Lễ của nho giáo gồm
có lục lễ: gia quán lễ – tức lễ thăng
chức, phong chức tước hoặc tuyên
dương lập công lớn cho triều đ́nh; hôn
lễ – tức lễ cưới hỏi ; táng lễ –
tức lễ chôn cất; tế lễ – tức lễ
cúng trời đất qủy thần ;hương
lễ – lễ cúng đ́nh làng và cuối cùng là
tương kiến lễ – tức lễ chào đón, gặp
mặt, ra mắt.Các h́nh thức lễ nói trên có cái
vẫn tồn tại và duy tŕ về sau v́ nó đă
ăn sâu vào phong tục tập quán và nếp sống
người Việt Nam.Hôn lễ dù cho đơn
giản đến đâu cũng phải có lễ cúng
vái ông bà tổ tiên và tối thiểu có các lễ
vật như : trầu cau, rượu trà…Táng lễ dù
cho tiết kiệm đến đâu cũng phải có
bàn thờ để thắp nén hương
tưởng nhớ người đă khuất và khâm
liệm chôn cất tử tế. Khổng Tử đă
từng nhắc nhở : “ lễ mà qúa xa xỉ th́
kiệm ước c̣n hơn ; tang mà quá chú trọng nghi
tiết th́ thương xót c̣n hơn ”.
Khổng Tử có nói : “ Cung
kính mà không biết lễ th́ khó nhọc, cẩn
thận mà không biết lễ th́ nhút nhát, dũng
cảm mà không biết lễ th́ lọan động,
ngay thẳng mà không biết lễ th́ gắt gao,
mất long người.” dù tích cực hay tiêu cực,
ngày nay lễ vẫn có mục đích tập cho ta
khắc kỷ để tu thân..V́ lễ rất
cần thiết cho sự tu thân, nên Khổng Tử nói
là không học lễ th́ không biết lập thân và không
biết cách xử sự, và ông nói học lễ
cũng là để lập chí, theo ông người có
học th́ phải ràng buộc bằng lễ, như
vậy mới không trái với đạo lư.
Với chữ tín là phải
biết sáng suốt yêu người đáng yêu, ghét
người đáng ghét, đề bạt người
chính trực, bỏ người cong queo.Nhân trí dũng, ba đức đó dân
tộc nào thời nào cũng
cho là cần thiết cho sự tu thân – nhân
để luyện t́nh cảm, trí để luyện
trí tuệ, dũng để rèn nghị lực – liên
quan mật thiết với nhau.
Con người mà thiếu
đức tín th́ sẽ không thể nào đứng
vững được trong đời.Thà bỏ
lương thực và binh bị chứ không thể
bỏ chữ tín, có thể thời nay vẫn phải
vận dụng v́ nếu dân không tin chính quyền th́
chính quyền phải đổ ( dân vô tín bất
lập ).Các nhà nho giáo nói : “ người xưa thận
trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu
nói mà không làm được”,
thực tế điều này vẫn phải áp
dụng cho thời nay và về sau.
Tam Cương, Ngũ thường: quân
thần, phụ
tử, phu thê và quân
thần hữu nghĩa,
phụ tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu
tự, và bằng hữu
hữu tín.
Trong xă hội ngày nay chúng ta
có thể hiểu quân thần tức là mối quan
hệ giữa cấp trên và cấp dưới, và
mối quan hệ nay phải có t́nh có nghĩa, cấp
dưới mới nể phục và trung thành với
cấp trên và cấp trên mới qúy mến cấp
dưới.Cái t́nh cái nghĩa ở đây bao gồm
những điều nhân đức như : ngay
thẳng, không gỉa dối; nghiêm trang, cẩn
thận trong công việc, thận trọng trong lời
nói và mau mắn trong việc làm.
Chuyện sinh con trai hay gái
ngày nay và có thể một thời gian dài vẫn c̣n
ảnh hưởng khá lớn đối với
một số đối tượng bao giờ
cũng có ư nghĩ cần có con trai để nối
dơi tông đường, nhưng không phải là v́
sợ mang tội bất hiếu mà là nghĩ
đến bản thân ḿnh nhiều hơn.Ngày nay t́nh
thân giữa cha mẹ và con cái có những nét khác xưa
rất nhiều, con cái có điều kiện th́ mong
muốn ra riêng, không muốn sống chung với cha mẹ
ǵa, và coi trọng vợ con hơn là cha mẹ, có
thể về sau sẽ không bao giờ có những
chuyện như trong Nhị thập tứ hiếu
như: Dương Hương đánh hổ cứu
cha, hay là Đổng
Vĩnh bán thân chôn cha, hay là Vương Tường
nằm trên băng để bắt cá về nấu
canh cho mẹ kế ăn…
Cho nên Tam hiếu thời
xưa : đi xa không liên lạc với cha mẹ, không làm quan, và không có con
nối dơi không c̣n ảnh hưởng đến
người Việt Nam bao nhiêu, cái chính là vẫn
phải duy tŕ đức tính nhớ công ơn
dưỡng dục của cha mẹ và làm tṛn
đạo làm con, phụng dưỡng cha mẹ ǵa
đến cuối đời.
Ngày xưa Phu xướng
phụ tùy tức là chồng bảo ǵ phải nghe theo,
không được làm trái gần như không c̣n
ảnh hưởng ở Việt Nam.Người
phụ nữ Việt Nam sống trong chế
độ mới với tư tưởng nam nữ
b́nh đẳng đă được giao trả
lại quyền con người vốn có của ḿnh,
tự ḿnh có tiếng nói trong gia đ́nh và xă hội.Tuy
nhiên bản tính dịu dàng và siêng năng đầy
trách nhiệm của người phụ nũ Việt
Nam vẫn giỏi việc nước đảm
việc nhà một cách tự nguyện vui vẻ,
điều đó cho thấy ảnh hưởng
của nho giáo vẫn c̣n gắn liền ở xă
hội Việt Nam.Hai vợ chồng cùng đi làm
việc như nhau, khi về nhà người chồng
ngồi đọc báo hoặc xem truyền h́nh c̣n
người vợ th́ lập tức xăn tay áo vô
bếp nấu ăn, giặt giũ…
Việc người con
trưởng phải lo cho cha mẹ và phụ trách
từ đường, lo việc cúng kiếng, đám
giỗ vẫn c̣n tồn tại ở một số
nơi nhất là ở nông thôn.Nhưng ngày xưa khi
chia gia tài th́ cha mẹ không tính cho con gái, c̣n ngày nay theo
luật pháp phải chia đều cho tất cả con
cái nếu không có di chúc chia theo hướng
khác.Điều náy cho thấy vai tṛ của huynh
trưởng không c̣n đậm nét như xưa,
nếu huynh trưởng có tài và giỏi giang th́ các em
sẽ nghe theo, nếu chẳng may huynh trưởng
không có đạo đức th́ làm sao những
người em nghe theo? cho nên em luôn luôn phải vâng
lời nghe lời chỉ dạy của huynh
trưởng sẽ không nhất thiết xảy ra.
Bạn bè ngày nay kết thân
nhau ng̣ai sở thích giống nhau c̣n có người quan
niệm phải “ môn đăng hộ đối ”,
ở đây không nói chuyện dựng vợ gă
chồng mà là nói những người bạn giàu có th́
t́m quen và chơi thân những bạn cũng giàu có,
thử hỏi có người bạn nào đi chơi
với chiếc xe trị gía hàng trăm triệu
đồng mà t́m người bạn đi xe
đạp đi chơi chung ? một người
bạn ăn vận bộ đồ hang hiệu
cả triệu đồng lại đi chơi
với người bạn không có bộ đồ
đáng gía vài mươi ngh́n đồng, không có
đồ trang sức ? Bạn bè thân với nhau
bằng chữ tín, bằng tấm chân t́nh, và gíup đỡ nhau trong lúc
họan nạn h́nh như bị mai một, v́ bản
thân người bạn nghèo khổ, thấp hèn tự
cảm thấy tự ti và tự xa lánh những người
bạn giàu có.Bản thân những người làm chung
một cơ quan cũng ít khi có ḷng gíup đỡ
lẫn nhau mà thường là ganh tỵ, soi mói nhiều
hơn.
T́nh đồng nghiệp,
t́nh bạn học, t́nh bạn bè cần phải có
một quan niệm sống : rộng lượng, bao
dung, nhân từ mới bền chặt và tiếp
nối hững truyền thống tốt đẹp
của nho giáo.
Tam ṭng: tại gia ṭng
phụ, xuất gía ṭng phu, phu tử ṭng tử. Tứ đức:
công dung ngôn hạnh.
Ở nhà th́ phải theo cha,
điều đó là hiển nhiên, nhung khi con cái đă
lớn, đă thành niên th́ con có quyền quyết
định về con đường ḿnh đi.Khi
lấy chồng phải theo chồng, việc này vẫn c̣n ảnh
hưởng ở một số bậc cha mẹ
về quan niệm con gă xong là phải theo chồng
.nhưng nếu chẳng may gặp phải
người chồng đầy bạo lực và gia
đ́nh chồng tàn nhẫn th́ người phụ
nữ cam chịu và sống đau khổ tủi
nhục hết cả cuộc đời sao? Và nếu chẳng may
chồng chết sớm th́ phải ở vậy nuôi
con, và ở với con suốt cả đời?,
người phụ nữ có quyền lựa chọn
con đường của ḿnh; khi đến tuổi
thành niên tự chọn ngành hoc hoặc việc làm theo ư
ḿnh, lấy chồng như thế nào ăn ở ra sao
tự quyết định, và trong tương lai vai
tṛ tự do b́nh đẳng người phụ nữ
càng được khẳng định thêm.
Người phụ nữ
nếu biết nấu ăn, may vá, dệt vải th́
tốt, nhưng nếu không biết làm những
điều đó mà giỏi quản lư hoặc kinh doanh
th́ càng tốt hơn.Về tướng mạo, duyên
ăn nói và tánh t́nh th́ bắt buộc phải co.Thử
tưởng tượng một người phụ
nữ khuôn mặt lúc nào cũng cau có, nhăn nhó, ăn
nói đốp chát, hỗn hào và tánh t́nh xấu xa, ganh
tỵ, đâm thọt mọi người…th́ có ai
chấp nhận không? người phụ nữ Việt
Nam có truyền thống giỏi giang, dịu dàng, nết na thùy mị, siêng
năng th́ cần phải duy tŕ và phát huy những
đức tính đó.
Trong hơn hai ngàn năm, tất
cả các nhà nho chân chính ở Trung Hoa cũng như
ở Việt Nam, hữu danh cũng như vô danh,
từ Đổng Trọng Thư đến Đào tiềm,
Vương Dương Minh, Chu Văn An, Nguyễn Trăi,
Nguyễn Khuyến đến các ẩn sĩ, các
thầy đồ đều giữ được
truyền thống KhổngMạnh, tự gây ra một
uy tín rất lớn trong dân gian, gặp thời th́ ra
giúp nước, tận trung mà liêm khiết, không
gặp thời th́ lui về, độc thiện
kỳ than ;nước gặp nguy th́ không do dự, xă
thân v́ nghĩa, qua cơn nguy rồi th́ mặc ai tranh giành
danh lợi;họ không có một chút đặc
quyền, cao thượng mà vẫn b́nh dân, chỉ giúp
đồng bào chứ không màng phú qúy;họ không có
tổ chức mà giai cấp họ lại chặt
chẽ, trường tồn, v́ không tranh với ai,
một giai cấp kỳ dị không giống một
giai cấp nào trong lịch sử nhân loại:Văn
minh nhân loại ngày nay không sao tạo nổi giai
cấp đó nữa.Ngày nay các nhà giáo làm sao có
được uy tín với học tṛ như các cụ
đồ hời xưa.Lâu lâu chúng ta đọc báo
thấy nào là có học tṛ đánh thầy giáo của
ḿnh trọng thương,
nào là học tṛ hăm dọa cô giáo, đánh cô
giáo, mắng chửi thầy cô…c̣n đâu chữ tôn
sư trọng đạo, nhất tự vi sư bán
tự vi sư, nhất
nhật chi sư chung nhật chi phụ? Ngày nay sinh viên
tốt nghiệp ra trường đều chọn
hoặc chạy chọt chỗ làm việc nhàn hạ,
lương cao, có cơ
hội được nhận của đút lót
hoặc tham nhũng .Thử hỏi có bao nhiêu sinh viên
mong muốn làm việc nào đó lương thấp mà
sẳn sàng hết ḷng giúp dân, thương dân, v́ dân,
phục vụ dân, tận tụy v́ dân? Khổng tử
từng nói : “ ăn gạo xấu, uống
nước lă, co cánh tay mà gối đầu, trong
cảnh ấy cũng có cái vui.nhung làm điều
bất nghĩa mà được giàu sang th́ ta coi
như mây nổi” và ông khuyên môn sinh đừng v́
bổng lộc, chỉ nên cầu đạt
đạo, chứ không cầu chuyện bổng
lộc, chỉ nên lo không đạt đạo chứ
không lo nghèo ( ưu đạo bất ưu bần ).
Ở Việt Nam hiện nay, giai
cấp nho giáo không c̣n nữa, con cháu của giai cấp
đó c̣n lại một ít, nhưng trong số đó c̣n
giữ được nếp nhà th́ khá hiếm,
nếu c̣n giữ được bản sắc đó
th́ ta rất dễ nhận ra : thường họ
không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con
cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng
dạy học và rất có khiếu dạy học.Ngày
nay xă hội chúng ta c̣n
giữ được vài nguyên tắc của nho giáo :
nhà cầm quyền phải có đạo đức,
phải thương dân, được long dân ;xă
hội phải có trật tự công bằng ; chăm
nom sự giáo dục dân ngang với nuôi dân ;phải
giữ chữ tín tuyệt đối không lừa
gạt dân.Không ngừng bồi dưỡng đức
nhân ( t́nh cảm đôn hậu, khoan dung ), rèn luyện
đức dũng để tự chủ, giữ được liêm
sĩ thắng được những cám dỗ
khiến con người sa đọa và sa sút
đạo đức và cuối cùng là không ngừng
nâng cao đức trí trong
việc quản lư con người và xử sự
mọi việc.
Người thực
hiện: VƯƠNG VĨNH HIỆP
LỚP CAO HỌC KINH TẾ 2005
Trích bài tiểu luận thi môn triết học
|