正氣歌  -  文天祥

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại   Dịch   <photo>

 

 

(並序)

 

余囚北庭,坐一土室,室廣八尺,深可四尋,單扉低小,白間短窄,污下而幽
暗。當此夏日,諸氣萃然﹕雨潦四集,浮動床幾,時則為水氣;涂泥半朝,蒸漚歷
瀾,時則為土氣;乍晴暴熱,風道四塞,時則為日氣;檐陰薪爨,助長炎虐,時則
為火氣;倉腐寄頓,陳陳逼人,時則為米氣;駢肩雜遝,腥臊汗垢,時則為人氣;
或圊溷、或毀尸、或腐鼠,惡氣雜出,時則為穢氣。疊是數氣,當之者鮮不為厲。
而予以孱弱,俯仰其間,於茲二年矣,幸而無恙,是殆有養致然爾。然亦安知所養
何哉?孟子曰:「吾善養吾浩然之氣。」彼氣有七,吾氣有一,以一敵七,吾何患
焉!況浩然者,乃天地之正氣也,作正氣歌一首。

 

天地有正氣,雜然賦流形。下則為河岳,上則為日星。於人曰浩然,沛乎塞蒼冥。
皇路當清夷,含和吐明庭。時窮節乃見,一一垂丹青。在齊太史簡,在晉董狐筆。
在秦張良椎,在漢蘇武節。為嚴將軍頭,為嵇侍中血。為張睢陽齒,為顏常山舌。
或為遼東帽,清操厲冰雪。或為出師表,鬼神泣壯烈。或為渡江楫,慷慨吞胡羯。
或為擊賊笏,逆豎頭破裂。是氣所磅礡,凜烈萬古存。當其貫日月,生死安足論。
地維賴以立,天柱賴以尊。三綱實系命,道義為之根。嗟予遘陽九,隸也實不力。
楚囚纓其冠,傳車送窮北。鼎鑊甘如飴,求之不可得。陰房闐鬼火,春院閟天黑。
牛驥同一皂,雞棲鳳凰食。一朝蒙霧露,分作溝中瘠。如此再寒暑,百沴自闢易。
嗟哉沮洳場,為我安樂國。豈有他繆巧,陰陽不能賊。顧此耿耿在,仰視浮雲白。
悠悠我心悲,蒼天曷有極。哲人日已遠,典刑在夙昔。風檐展書讀,古道照顏色。

 

 

CHÍNH KHÍ CA   -  VĂN THIÊN TƯỜNG

 

GIỚI THIỆU

 

A- TÁC PHẨM

Chính Khí Ca là bài thơ làm theo thể hành, dài 60 câu, do Văn Thiên Tường, người đời Tống sáng tác trong khi bị giam giữ tại nhà ngục quân Nguyên Mông.

Tác phẩm này được người Trung Quốc mệnh danh là Thiên cổ hùng văn (anh hùng ca ngh́n đời).  Thậm chí người ta c̣n tin rằng sức mạnh của tác phẩm làm kinh động đến cả quỷ thần nên gặp lúc canh khuya, nếu phải đi qua nơi vắng vẻ rợn người , chỉ cần đọc rơ tiếng bản văn này th́ ma quỷ yêu tinh ǵ cũng đều không dám xúc phạm.

Nhận định một cách khoa học th́ Chính Khí Ca tập trung một số điều kiện khách quan để trở thành kiệt tác v́:

- Tác giả sẵn có tài năng văn chương xuất chúng (thi đỗ Trạng Nguyên).

- Tác giả sáng tác trong lúc bị giam giữ ốm đau, khốn đốn cùng cực (người Trung Quốc có nhiều kinh nghiệm để tin vào quy luật "cùng nhi hậu công" của giới sáng tác).

- Về hoàn cảnh sáng tác th́ vào thời Tống, nền văn học Trung Quốc đạt đến tầm cao của lịch sử.  Trong số 8 tác giả lớn thời Đường Tống (Đường Tống bát đại gia) th́ 317 năm trị v́ của họ Lư nhà Đường chỉ đóng góp có hai đại gia, c̣n sáu đại gia kia là phần đóng góp của 336 năm trị v́ của họ Triệu nhà Tống.  Có khả năng rất lớn là Văn Thiên Tường hấp thụ tinh hoa trong môi trường dồi dào dưỡng chất văn học ấy.

B- TÁC GIẢ

Văn Thiên Tường (1236 - 1282) người huyện Cát Thủy (Giang Tô) tên tự là Tống Thụy, tên nữa là Lư Thiện, hiệu Văn Sơn.  Ông thi đỗ nhằm thời nhà Tống suy vong, quân Nguyên Mông đă chiếm hầu hết miền Bắc, lập triều đ́nh (Nguyên Thái Tổ Thành Cát Tư Hăn lên ngôi từ năm 1206), rộng răi th́ giờ để củng cố lực lượng ồ ạt tiến xuống miền Nam.  Văn Thiên Tường được vua Đoan Tông nhà Tống phong làm Hưu thừa tướng, cầm đầu một phái đoàn đi cầu ḥa.

Nguyên quân bấy giờ đă hùng hổ chinh phục khắp Âu Á (diệt nước Yên năm 1215, nước Hồi năm 1222, nước Kim năm 1234, đánh tan liên quân Nga, bắt sống vua Nga năm 1237, đánh Cao Ly năm 1247, diệt Đại Lư rồi chiêu hàng Thổ Phồn năm 1253, đánh Nhật Bản năm 1280, đánh Myanmar năm 1282.  Cùng năm này, nhà Nguyên đưa Trần Di Ái về làm vua nước ta nhưng không thành, tiến đánh Chiêm Thành rồi chiếm được vào năm sau).

Trước t́nh h́nh đó, việc cầu ḥa để hoăn binh là thủ đoạn ấu trĩ mang tính cách khiêu khích và kết quả đă nhận ra ngay từ đầu:  Văn Thiên Tường bị bắt giam ở Trấn Châu.  Ông trốn thoát về phục mệnh, được phong làm Tả thừa tướng (tương đương Thủ tướng ngày nay).  Ông đích thân cầm binh chống giặc.  Tướng Nguyên là Trương Hoằng Phạm phá tan cứ điểm cuối cùng của quân Tống ở Nhai Sơn (Quảng Đông).  Nhà Tống bị diệt vong năm 1279.

Văn Thiên Tường thoát được, dốc hết gia sản chiêu mộ nghĩa binh tổ chức chống Nguyên, vợ con ông bị giặc giết hại, bản thân ông bị bắt giam.  Hốt Tất Liệt (Nguyên Thái Tổ) đích thân dụ hàng suốt ba năm không lay chuyển được chí ông bèn sai chém đầu (Tương truyền Hốt Tất Liệt than:  "Thật xứng đáng là trang nam tử!");

Chính Khí Ca đáng coi là một hồi quang rực rỡ tâm hồn yêu nước thiết tha của Văn Thiên Tường vậy.

C- VIỆC DỊCH THUẬT

Bản dịch này không duy tŕ văn thể ngũ ngôn của nguyên tác mà chuyển thành thể ngâm văn cho phù hợp với sự cảm nhận của người đọc (Trong văn học Việt Nam đă từng có Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm, Ai Tư Văn, v.v.. vốn đă tạo được sự ngậm ngùi sâu lắng, đạt được sự cảm thông giữa người viết và người đọc).

Với Chính Khí Ca, thể ngâm văn có một nhược điểm là đánh mất cách bố cục của nguyên tác.  Tuy nhiên, nhược điểm này không ảnh hưởng quá lớn đến mục đích cảm thụ nghệ thuật.

Về cách dịch, chúng tôi không câu nệ từng từ ngữ mà chỉ nhằm lột tả ư tưởng của tác giả, cốt tạo điều kiện thuật lợi nhất cho người đọc ngày nay tiếp cận tác phẩm cổ văn.

D- VIỆC CHÚ GIẢI

Với Chính Khí Ca, việc chú thích ư nghĩa từ ngữ không thể thỏa măn được nhu cầu t́m hiểu mà c̣n phải tiến hành giải thích ư tưởng nữa.

Là áng văn cổ hơn 700 năm, người đọc ngày nay dẫu có v́ ḷng trân trọng một tác giả anh hùng mà chấp nhận áng hùng văn ấy th́ trí tuệ vẫn không dễ ǵ tiêu hóa trọn vẹn được, do đó dễ sinh tư tưởng "Kính nhi viễn chi" và như thế, tác phẩm không phát huy được giá trị giáo dục đầy minh triết của một... nhân vật đầy nhiệt t́nh yêu nước, nếu sống măi đến nay th́ đă đạt 770 tuổi.  Khoảng cách quá lớn về thời đại chẳng dễ ǵ cho người nay lănh hội lời lẽ người xưa.

Trong hoàn cảnh nghèo tư liệu, lắm chỗ điển cố không c̣n nhớ rơ và khó thể tra cứu nên đành phải thả nổi, dành cho người đọc tự bổ sung vậy.

Người dịch

 

 

天地有正气,杂然赋流形。
下则为河岳,上则为日星。


于人曰浩然,沛乎塞苍冥。
皇路当清夷,含和吐明庭。


时穷节乃见,一一垂丹青。

在齐太史简,在晋董狐笔。

 

PHIÊN ÂM:

 

Thiên địa hữu chính khí,
Tạp nhiên phú lưu h́nh.
Hạ tắc vi hà nhạc,
Thượng tắc vi nhật tinh.


Ư nhân viết hạo nhiên,
Bái hồ tắc thương minh.
Hoàng lộ đương thanh di,
Hàm ḥa thổ minh đ́nh.


Thời cùng tiết nải hiện,
Nhất nhất thùy đan thanh.
Tại tề Thái sử giản,
Tại Tấn Đổng Hồ bút.

 

 

DỊCH NGHĨA:

 

Trời đất có chính khí 1,
Pha trộn sẵn, lưu thông thành h́nh dáng.
Dưới th́ làm sông, núi,
Trên th́ làm mặt trời, sao.


Ở người gọi là khí hạo nhiên 2,
Tràn lấp từ trời xanh đến tận chốn u minh.
Đường làm vua nhằm hồi thanh b́nh, vừa ư,
Nó ngậm lẽ thái ḥa 3 ụa vào sân chầu 4 sáng suốt.


Lúc cùng khốn khí ấy mới hiện ra ở tiết tháo,
Mỗi mỗi đều buông rũ vào sử sách.
Là thẻ tre quan Thái sử nước Tề 5,
Là cây bút của Đổng Hồ 6 nước Tấn.

 

DỊCH THƠ:

 

Trong trời đất có đầy chính khí,
Xen lẫn vào mọi mặt sẵn ḍng.
Dưới này là núi, là sông,
Trên kia sao sáng cùng ông mặt trời.


Là hạo nhiên khi người nhận nó,
Khí ứ tràn nghẽn cả đất trời.
Nước nhà yên ả, thảnh thơi,
Khí ḥa vũ trụ trút nơi triều đ́nh.


Khi vận nước ngửa nghiêng, cùng quẫn,
Khí phả vào, danh rạng sử xanh.
Thẻ Tề, Thái sử nêu danh,
Đổng Hồ bút Tấn, quyền thần vô phương.

 

 

在秦张良椎,在汉苏武节。

为严将军头,为嵇侍中血。


为张睢阳齿,为颜常山舌。

或为辽东帽,清操厉冰雪。

 

或为出师表,鬼神泣壮烈。

或为渡江楫,慷慨吞胡羯。

 

PHIÊN ÂM:

Tại Tần Trương Lương chùy,
Tại Hán Tô vũ tiết.
Vi Nghiêm tướng quân đầu,
Vi Kê Thị trung huyết.

Vi Trương Thư dương xỉ,
Vi Nhan Thưởng sơn thiệt.
Hoặc Vi Liêu đông mạo,
Thanh tháo lệ băng tuyết.

Hoặc vi xuất sư biểu,
Quỷ thần khốc tráng liệt.
Hoặc vi độ giang tiếp,
Khảng khải thôn Hồ Yết.

 

 

DỊCH NGHĨA

Là cây chùy của Trương Lương 7 đời Tần,
Là cờ tiết của Tô Vũ 8 đời Hán.
Làm cái đầu của tướng quân họ Nghiêm 9,
Làm máu quan Thị trung họ Kê 10.

Làm răng của họ Trương ở Thư dương 11,
Làm lưỡi của họ Nhan ở Thưởng Sơn 12.
Hoặc làm măo ở Liêu đông 13,
Tiết tháo trong suốt nghiên túc như băng tuyết.

Hoặc làm bài biểu ra quân 14,
Quỷ thần khóc v́ sự tráng liệt.
Hoặc làm cây chèo vượt sông 15,
Khảng khái nuốt sống quân Hồ Yết 16.

 

DỊCH THƠ

Chùy Trương Lương đánh Tần phục hận,
Cờ sứ thần Tô Vũ chẳng rời.
Tướng Nghiêm thà chịu đầu rơi,
Họ Kê đem máu tô ngời Thị trung.

Thư dương vỡ, răng Trương cũng mất,
Chốn Thưởng sơn, giặc cắt lưỡi Nhan.
Hào hùng chiếc măo Liêu đông,
Sáng trong tiết tháo sánh cùng tuyết băng.

Xuất sư biểu viết bằng máu nóng,
Tráng liệt thay, rúng động quỷ thần!
Mái chèo hăm hở vượt sông,
Diệt quân Hồ Yết, quyết không dung t́nh.

 

 

或为击贼笏,逆竖头破裂。
是气所磅礴,凛然万古存。
当其贯日月,生死安足论!
地维赖以立,天柱赖以尊。
三纲实系命,道义为之根。
磋余遘
九,隶也实不力。

 

PHIÊN ÂM:

Hoặc vi kích tặc hốt,
Nghịch thụ đầu phá liệt.
Thị khí sở bàng bạc,
Lẫm liệt vạn cổ tồn.

Đương kỳ quán nhật nguyệt,
Tử sinh an túc lôn. *
Địa duy lại dĩ lập,
Thiên trụ lại dĩ tôn.

Tam cương thực hệ mạng,
Đạo nghĩa vi chi căn.
Ta dư cấu dương cửu,
Lệ dă thực bất lực.

 

 

DỊCH NGHĨA

Hoặc làm cái hốt 17 đánh vào giặc,
Đầu kẻ nghịch thần 18 vở toang.
Vẻ bàng bạc của thứ khí ấy,
C̣n lẫm liệt măi muôn đời.

Đang khi nó sáng xuyên cả nhật nguyệt,
Chuyện sống chết đâu đáng bàn?
Góc đất 19 nhờ nó mà đứng vững.
Cột trời 20 nhờ nó mà tôn nghiêm,

Tam cương 21 nhờ nó buộc vào tính mệnh thực sự,
Nó là rễ bám của đạo nghĩa,
Ôi, ta gặp hồi vận xui 22,
Kẻ nô lệ thực sự bất lực.

 

DỊCH THƠ

Hốt là vật nhẹ tênh, vài tấc,
Dồn căm hờn đập nát đầu thù.
Một ṿng chính khí rộng sâu,
Tạo nên lẫm liệt dài lâu muôn đời.

Khi khí ấy bốc mờ nhật nguyệt,
Chuyện tử sinh chẳng thiết mảy may.
Đất nhờ có nó vững thay,
Trời nhờ có nó càng đầy tôn nghiêm.

Buộc Tam cương nhờ thêm chính khí,
Đạo nghĩa bền do đấy mà thôi.
Ta lâm dương cửu, than ôi!
Đành cam bất lực chịu đời vong nô.

 

 

楚囚缨其冠,传车送穷北。
鼎镬甘如馅,求之不可得。
阴房冥鬼火,春院
天黑。
牛骥同一皂,鸡栖凤凰食。
一朝蒙雾露,分作
中瘠。
如此再寒暑,百自辟易。

 

PHIÊN ÂM:

Sở tù anh kỳ quan,
Truyến ** xa tống cùng bắc.
Đỉnh hoạch cam như di,
Cầu chi bất khả đắc.

Âm pḥng điền
[ khuất ] quỉ hỏa,
Xuân viện bí thiên hắc.
Ngưu kư đồng nhất tạo,
Kê thê phượng hoàng thực.

Nhất triêu mông vụ lộ,
Phân tác câu trung tích.
Như thử tái hàn thử,
Bách lệ tự tịch dịch.

** Chữ truyền ở đây đọc thành truyến.

 

 

DỊCH NGHĨA

Người tù Sở 23 cột dải vào mũ của y,
Xe trạm 24 đưa đến tận cùng miền Bắc 25.
Đỉnh vạc ngọt như kẹo,
T́m lại nó không thể được 26.

Pḥng tối vắng lửa quỷ 27,
Buồng xuân bít bùng trời đen.
Trâu với ngựa kư 28 cùng một chuồng,
Phượng hoàng 29 ăn với gà đậu mặt đất.

Một hôm dầm hơi mù, sương móc,
Thân phận kẻ gầy c̣m trong ng̣i mương 30.
Như vậy mất vài mùa lạnh nóng 31,
Trăm thứ ác khí tự ư tránh ra 32.

 

DỊCH THƠ

Phận tù Sở, buộc tua mũ Sở,
Giải xe thư măi tới Bắc cùng.
Ngọt bùi là miếng đỉnh chung,
C̣n ǵ đâu nữa mà mong hở trời?

Trong ngục tối, ma trơi vắng lửa,
Như buồng xuân đóng cửa tối đen.
Ngựa hay nhốt với trâu hèn,
Phượng hoàng cùng mổ thức ăn của gà!

Có khi ốm, nền nhà ẩm thấp,
Gầy xác ve, nằm mọp kênh mương.
Mấy mùa mưa nắng tai ương,
Bao nhiêu bệnh hoạn t́m
đường lánh [ lảng ] xa.

 


哀哉沮洳场,为我安乐国。
岂有他谬巧,阴
不能贼!
顾此耿耿在,仰视浮云白。
悠悠我心忧,苍天曷有

哲人日已远,典刑在夙昔。
风檐展书读,古道照颜色。

 

PHIÊN ÂM:

Ai tai tự như trường,
Vi ngă an lạc quốc.
Khởi hữu tha mâu xảo,
Âm dương bất năng tặc.

Cố thử cảnh cảnh tại,
Ngưỡng thị phù vân bạch.
Du du ngă tâm ưu,
Thương thiên hạt hữu cực.

Triết nhân nhật dĩ viễn,
Điển h́nh tại túc tích,
Phong thiềm triển thư độc,
Cổ đạo chiếu nhan sắc.

 

 

DỊCH NGHĨA

Đau đớn thay!  Chỗ ẩm thấp này,
Là nước yên vui của ta ư!
Há có được mánh khóe dối trá khác,
Âm dương 33 không có khả năng hại được.

Ngoảnh lại cảnh huy hoàng c̣n ở đấy 34,
Ngửng nh́n lên mây trắng 35 nổi trôi.
Ḷng ta buồn mênh mang,
Trời xanh sao có sự tột độ này?

Triết nhân 36 ngày càng xa rồi,
Mẫu mực c̣n lại từ xưa,
Dưới thềm gió, giở sách đọc,
Đạo xưa rọi vàng sắc mặt.

 

DỊCH THƠ

Cảnh ngộ ta nghĩ mà đâu đớn,
Nhận băi lầy làm chốn yên vui.
Phải chi khéo léo hơn người,
Đủ tài biến báo đẩy lùi âm dương.

Ngoảnh nh́n lại, sáng trưng là thế,
Ngửng trông lên, mây trắng nổi trôi,
Mênh mang ta luống ngậm ngùi,
Trời xanh sao nỡ gieo xui tột cùng?

Ôi triết nhân mịt mùng xa vắng
Chuẩn mực từng nêu sẵn xưa xa.
Trước thềm lộng gió giở ra,
Từng trang sách vẫn chói ḷa đạo xưa...

 

CHÚ GIẢI:

1- Chính Khí:  Tố chất cao quí kích thích con người nẩy sinh hành vi phi thường, oanh liệt, hợp đạo lư, đồng thời tạo ra muôn sao, mặt trời, sông, núi trong vũ trụ.

2- Hạo nhiên:  Khí chất lớn lao đúng đắn vốn có sẵn ở con người.

3- Thái ḥa:  Sự hài ḥa lớn lao trong thiên nhiên.  Người xưa quan niệm mọi vật trong vũ trụ đều hài ḥa với nhau v́ vậy bốn mùa cũng liên quan với con người v́ "nhân thân tiểu thiên địa" nên mùa xuân gây hớn hở, mùa thu gây u buồn.  Mặt khác, ăn uống một loại nội tạng của loài vật cũng bồi bổ nội tạng tương đương ở con người, v.v...  Do đó, một khi việc cai tri gặp thuận lợi, khí hạo nhiên của từng cá nhân ngấm đậm tinh thần thái ḥa trong tự nhiên (Hàm ḥa) dội vào những vua sáng tôi hiền.

4- Sân chầu:  Ám chỉ bộ máy cai trị phong kiến.

5- Thái sử nước Tề:  Thái sử, gọi tắt chức Thái sử lệnh, viên quan lo việc chép sử.  Thời Xuân Thu, tướng quốc nước Tề là Thôi Trừ giết vua Tề để đoạt ngôi.   Viên Thái sử lệnh chép ngay sự kiện ấy vào thẻ tre (gián).  Thôi Trừ đến sử quán rút thẻ ấy ra bẻ găy, buộc phải viết lại theo ư Thôi.  Viên Thái sử lệnh viết lại y như cũ rồi sẵn sàng chịu chết khiến Thôi nhượng bộ, lập lại ḍng vua cũ.

6-  Đổng Hồ:  Sứ quan nước Tề thời Xuân Thu.  Khi tướng quốc Triệu Thuần sợ Linh Công giết hại, bỏ trốn khỏi kinh thành, em Triệu Thuần là Triệu Xuyên ra tay giết vua Linh Công, Triệu Thuần trở về giữ lại chức cũ, sứ quan Đổng Hồ chép vào thẻ là Triệu Thuần giết vua.  Xem thẻ, Triệu Thuần phân trần:  "chuyện xảy ra vào lúc ta không c̣n ở kinh đô, sao nhà ngươi dám viết càn như vậy?  Đổng Hồ căi:  "Ngài làm Tướng quốc tự ư rời bỏ kinh thành.  Khi trở về lại không trừng trị thủ phạm, vậy phải coi là chính ngài đă giết vua".  Triệu Thuần đuối lư bèn ra lệnh giết Đổng Hồ và quy cho tội danh chép sử không đúng sự thật.   Hai người em Đổng Hồ lần lượt thay thế đều cùng bị ghép vào tội ấy v́ không ai chịu viết theo ư Triệu Thuần.  Triệu Thuần đành nhượng bộ để tránh tiếng hiếu sát, bất nhân, ảnh hưởng đến kế hoạch lâu dài (chức Thái sử lệnh được thế tập, truyền cả cho con gái nếu được vua chỉ định).

7- Chùy Trương Lương:  Chùy (vũ khí h́nh cầu có cán hoặc xích sắt để cầm), Trương Lương tức Trương Tử Pḥng, có cha và anh lần lượt giữ chức Thừa tướng nước Hàn (một trong 7 nước lớn c̣n lại vào cuối thời Chiến Quốc) khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương thuê lực sĩ dùng một loại chùy nặng 120 cân (72kg) để trả thù cho nước Hàn.  Họ phục kích ở Bác Lăng sa, nơi Tần Thủy Hoàng đi qua.  Chùy đập vỡ xe đi đầu, nhưng chỉ là chiếc xe không người.  Cả hai trốn kịp.  Về sau nghe tin Lưu Bang dấy nghĩa binh, Trương Lương t́m đến giúp đỡ tận lực, bày mưu tính kế và quan trọng nhất là t́m nhân tài làm bộ khung ưu tú lập nên nhà Hán.  Khi đạt thắng lợi hoàn toàn, ông khước từ mọi ban thưởng, rời khỏi kinh đô không rơ đi đâu.  Hán Cao tổ Lưu Bang đành phong cho ông tước Lưu hầu (chỉ có tính chất kỷ niệm!).

8- Tô Vũ:  Sứ giả vua Vũ đế nhà Hán đi sứ Hung nô.  Chúa Hung nô dụ ông làm quan, ông quyết liệt từ khước.  Sợ lộ chuyện, chúng đày ông lên Bắc hải chăn dê.  Nhà Hán nhiều lần đ̣i người, chúa Hung nô đều một mực chối là không giữ Tô Vũ.  Mười chín năm sau, t́nh cờ có người bắn chim nhạn, phát hiện chân chim có buộc sợi vải lấy trong lá cờ tiết nhà Hán đă từng trang bị cho Tô Vũ.  Trước vật chứng này, Hung nô đành phải giao trả Tô Vũ. (tác giả đề cao tinh thần cang trường bất khuất để gián tiếp giải thích việc cự tuyệt lời dụ hàng của Hốt Tất Liệt).

9- Tướng quân họ Nghiêm:  Tức Nghiêm Nhan, tướng giữ Ba quân của đất Thục (Tứ xuyên ngày nay).  Khi Trương Phi tấn công, vây thành quát lớn:  "Đại quân đă đến sao chưa hàng đầu?"  Nghiêm Nhan đứng trên mặt thành dơng dạc quát lại:  "Nơi đây chỉ có loại tướng quân đoạn đầu chứ không có loại tướng quân hàng đầu!".

10- Thị trung họ Kê:  chưa tra cứu được.

11- Câu 17:  Trương Tuấn đời Đường, trấn thủ thành Thu dương.  Khi thành thất thủ, Trương bị bắt, ông chửi mắng An Lộc Sơn là kẻ phản loạn, bất nghĩa, bị đối phương đánh găy hết răng.

12- Câu 18:  Nhan Cảo Khanh làm Thái thú quận Thưởng sơn, đem quân đánh An Lộc Sơn, thua trận, địch dụ hàng, ông chửi mắng bị giặc cắt lưỡi.

13- Câu 19:   Chưa tra cứu được.

14- Biểu ra quân:  Đơn thỉnh nguyện đem quân đánh Ngụy Tấn của Gia Cát Lượng,  Thừa tướng nước Thục.  Nước Thục (nay thuộc Tứ xuyên)  địa thế cô lập lại cực kỳ hiểm trở gây nhiều khó khăn cho việc hành quân.  V́ vậy vua Thục Hậu chúa chủ trương cầu an không thích nghe lời Gia Cát Lượng.  Gia Cát Lượng đă sáu lần dâng biểu xin đem quân vượt núi non ra đánh Tấn.  Do nhiều lần không thành công nên ông phải dùng lời biểu  tha thiết để lay chuyển chủ trương cầu an của phe phản đối, lời lẽ thống thiết đến quỷ thần cũng phải xúc động.

15- Mái chèo vượt sông:  chưa tra cứu được.

16- Hồ Yết:  tên hai bộ tộc rất hiếu chiến sống ở miền Bắc Trung quốc, thường được gọi chung là rợ Hung nô.

17- Hốt:  mảnh gỗ dài hơn gang tay, được sơn bóng và khảm lên đấy miếng gương soi nhỏ.  Khi vào chầu hay làm chủ lễ, các quan cầm hốt bằng hai tay, mắt nh́n vào gương soi (để tự kiểm tra sự nghiêm túc).

18-  Kẻ nghịch thần:  chưa tra cứu đươc.

19- Góc đất:  nguyên văn địa duy.  Người xưa tin rằng mặt đất vuông, bốn "góc" được duy tŕ bằng bốn chân một con rùa... siêu khổng lồ(!).

20- Cột trời:  nguyên văn thiên trụ.  Người xưa tin rằng trời được chống đỡ bằng "cây cột" rất chắc, nhưng lại không xác định cột ấy ở đâu (có người "đoán" rằng nó ở ngoài biển đông, nơi đó nước rất nhẹ, ném cái lông cũng... ch́m!)

21- Tam cương:  ba sợi dây lớn (dây giềng) của "tấm lưới tinh thần" giữ chặt cho đạo lư ở đời là vua tôi, cha con, chồng vợ.

22- Vận xui:  vận hội ách tắc (nguyên văn dương cửu, thuật ngữ của kinh Dịch).

23- Tù Sở:  Chung Nghi người nước Sở (vùng Hồ bắc ngày nay, phía nam Trung quốc) bị bắt làm tù binh ở nước Tề (vùng Sơn đông ngày nay, phía Bắc Trung quốc).  Ở đấy ông buộc thêm tua vào mũ cho đúng kiểu dáng của Sở.  (Văn Thiên Tường cũng bị bắt ở Quảng đông đưa về Yên kinh có lộ tŕnh tương tự).  Về sau hai chữ "Sở tù" được dùng chỉ chung kẻ gặp cảnh khốn đốn cùng cực.  Văn Thiên Tường dùng theo nghĩa ấy.

24- Xe trạm:  xưa đưa công văn, bắt buộc phải "bội dạo" tức mỗi ngày phải qua hai trạm, ngụ ư tác giả đă phải chịu đựng hành hạ nghiệt ngă trong suốt nhiều ngày đường.

25- Tận cùng miền Bắc:  ám chỉ Yên kinh (tức Bắc kinh ngày nay).

26- Hai câu 39 - 40:  tác giả bàng hoàng hồi tưởng thời làm Thừa tướng.

27- Lửa Quỷ:  chỉ hiện tượng khí đốt phốt pho thiên nhiên tự bốc cháy.  Ư ở đây là pḥng giam tối om (âm pḥng) không có cả đến một ánh lửa chập chờn hiu hắt.

28- Ngựa Kư:  giống ngựa quư, đứng trong chuồng th́ có vẻ uể oải mỏi mệt nhưng khi vào đường dài th́ hăng sức đến xuất thần chạy ngàn dặm mỗi ngày cũng không xuống sức.  Thường được ví với người tài cao.

29- Phượng hoàng:  theo tín ngưỡng truyền thống, đây là loài linh điểu, con trống là phượng, con mái là hoàng.  Thức phẩm duy nhất của chúng là hạt ngô đồng, v́ vậy chúng chỉ đậu trên cây ngô đồng chứ không đậu tùy tiện và chỉ xuất hiện để báo điềm lành khi đất nước thanh b́nh, người hiền tài ra đời.

30- Câu 46:  miêu tả vẻ hốc hác phờ phạc tột cùng, không c̣n nhận ra được vóc dáng con người (kẻ kiệt sức chống cự muông thú và được an táng... tự động).

31- Mấy mùa lạnh nóng:  ám chỉ ba năm bị giam giữ, dụ dỗ ở Yên kinh, nơi có khí hậu gay gắt hơn miền Nam.

32- Câu 48:  ngụ ư cơ thể suy nhược tiều tụy đến mức ngay cả "ôn hoàng dịch lệ" cũng "chê" không thèm động đến.

33- Âm dương:  Ư nghĩa ở đây dựa theo thơ Tính Lư:  "Thiên địa vi lô hề!  Tạo hóa vi công!  Âm dương vi thán hề!  Vạn vật vi đồng" (Trời đất là ḷ - Tạo hóa là thợ - Âm dương là than - Vạn vật là đồng)  Văn Thiên Tường tự coi ḿnh là "đồng" đang bị "than" âm dương nung nấu, không có được "mánh khóe dối trá" để tránh nung nấu như những kẻ chọn nẻo sống bằng cách hợp tác với triều mới như Trương Hoằng Phạm (Tống gian được phong làm Phó Đề đốc, chỉ huy chiến dịch tiêu diệt nhà Tống).

34- Câu 53:  ám chỉ thời kỳ thành đạt ngắn ngủi của tác giả trong quá khứ.

35- Mây trắng:  biểu hiện cho sự phù phiếm, biến chuyển nhanh chóng của cảnh giàu sang ở đời.

36- Triết nhân:  ở đây chỉ người có tŕnh độ trí thức cao, có đạo đực mẫu mực.

 


HỆ LUẬN CHÍNH KHÍ CA


TÀ KHÍ CA

Nếu mặt đất không sông không núi,
Nếu bầu trời ngày tối, đêm mù.
Nhân gian thả nổi kiếp người,
Bản năng chi phối sống đời cỏ cây.

Ấy tà khí đă thay chính khí,
Sống càng lâu vô vị càng nhiều.
Biết bao là ó là diều,
Đua nhau rút rỉa bao nhiêu chẳng vừa.

Rặt những kẻ gạt lừa, gian dối,
Phỉnh nịnh nhau trăm lối ngh́n tṛ.
Ḷng người điên đảo khó ḍ,
Vơ tiền thiên hạ nhồi no túi ḿnh.

Nhận công tŕnh chỉ chăm rút ruột,
Lập công ty toan chước ranh ma.
Bảo kê, quịt nợ đại trà,
Bia ôm, ṣng bạc bày ra dẫy đầy.

Đấy buôn lậu, th́ đây chạy án,
Kia phá rừng, nọ bán ái t́nh.
Đất công hóa phép đất riêng,
Tham ô nhương cậu *, dưới trên chia phần.

*

Dẫu nêu gấp vạn lần chẳng hết,
Tà khí đang mù mịt đất trời.
Xua tan chính khí nơi nơi,
Ngậm ngùi ta viết mấy lời gởi ai...


Thái Trọng Lai

* Nhương = 10 tỉ
   Cậu = 100 tỉ = 10 nhương

 

 

 

Copyright © 2006 KHAIMINH.ORG