I - Ư nghĩa tác phẩm.
Tên gọi Minh Tâm Bảo Giám 明心寶鑑 có nghĩa là
"gương báu" (soi) sáng ḷng" - gương
báu chỉ những lời răn dạy của thánh hiền
(những nhân vật trong xă hội và lịch sử có
trí tuệ, nhân cách vượt trội mọi người)
Lời răn dạy của các nhân vật ấy vốn
chịu nhiều ảnh hưởng của ba luồng
tư tưởng chính thống trong xă hội Á Đông:
Nho, Phật, Lăo.
Những tư tưởng ấy tồn tại hăm lăm thế kỷ nay và đă
góp phần tích cực cho đạo lư làm người.
Ngày nay chúng không c̣n giữ nguyên vẹn giá trị giáo
điều như buổi đầu mà phần lớn
chỉ c̣n giá trị tham khảo. Tuy nhiên, chân lư của
chúng vốn đă được loài người vận
dụng vào cuộc sống suốt một thời gian
dài, v́ vậy những ai cảm thấy dị ứng
với chúng cũng có nghĩa là dị ứng với
nhân loại trong quá khứ, tức dị ứng với
tiền nhân.
II - Nguồn gốc tác phẩm.
Sách Minh Tâm Bảo Giám xuất hiện ở Triều
Tiên (Hàn Quốc) vào cuối thế kỷ XIII do một
văn thần triều vua Trung Liệt vương biên
soạn. Văn thần ấy là Thu Quát (秋适 1245 - 1317)
người Triều Tiên gốc Trung Quốc.
Tổ xa đời của Thu Quát là Thu Khái (秋磕) giữ chức
Môn hạ Thị trung (chức quan làm việc cạnh
vua) ở Trung Quốc dưới triều Tống Cao
Tông (1127 - 1162). Bấy giờ hầu hết lănh thổ
Trung Quốc đă về tay quân Kim (thuộc bộ tộc
Nữ Chân, cư dân ở khoảng giữa sông Tùng Hoa
và sông Áp Lục, tổ tiên của nhà Thanh sau nầy)
lănh thổ nước Liêu và nhà Tống đang bị
thôn tính dần dần theo kiểu tằm ăn dâu (Kim
thái tổ đă lên ngôi từ năm 1115) Cuối cùng
vua tôi nhà Tống di tản về Phúc Kiến, trở
thành nhà Nam Tống (1127 - 1179), thần phục nước
Kim trong bước đường cùng, chấp nhận
nhiều điều kiện cực kỳ nhục nhă.
Trong t́nh h́nh ấy, Thu Khái bỏ quan lưu vong sang Triều
Tiên, định cư ở Hàm Hưng được
khoảng năm đời, đến đời Thu
Quát làm đến chức Dân bộ Thượng
thư Nghệ văn quán Đại đề học (hàm
nghĩa như Bộ Trưởng Văn Hóa ngày nay).
Trong thời kỳ c̣n giữ chức giáo dục Quốc
Học, vào năm Trung Liệt 31, Thu Quát tiến hành chọn
lọc tinh hoa chư tử biên soạn nên sách Minh Tâm Bảo
Giám gồm 260 câu, chia làm 19 thiên. Sách liền được
hoan nghênh rộng răi và được chọn làm tài liệu
giảng dạy. Hiện nay tại thư viện Nhân
Hưng trong khuôn viên từ đường họ Thu ở
thành phố Đại Khâu, Hàn Quốc c̣n bảo quản
hơn 160 mảnh khắc gỗ sách Minh Tâm Bảo Giám
của Thu Quát (tên người, tên đất trên
đây được phiên âm theo Trung Quốc).
Đến năm Cung Du Vương 12, cháu nội Thu Quát là
Thu Suyền (秋湍) quay về tổ
quốc tham gia nghĩa quân Chu
Nguyên Chương (1328 - 1398). Khi nhà Minh thành lập
(1368) Thu Suyền trở thành công thần mở nước.
Nhân cơ hội ấy, Thu Suyền bèn đưa sách
Minh Tâm Bảo Giám của ông nội ḿnh phổ biến
vào Trung Quốc. Phạm Lập Bản (范立本) liền dựa
theo sách ấy mở rộng thành tác phẩm có 20 thiên,
chứa hơn 600 câu. Từ đó sách được
biên tập, chỉnh lư, bổ sung nhiều lần (nhu
cầu bắt buộc của một đất nước
mênh mông nhưng giao thông hạn chế!) đặt biệt
là vào thời Vạn Lịch (Minh Thần Tông 1573 -
1619).
Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng răi ở Nhật
Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây
phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch
(người ta không nhắc tên người biên soạn
có lẽ do nghĩ rằng tác giả thực thụ
chính là những người phát biểu ư kiến
đă được trích dẫn). Người dùng sách
ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát
chỉ c̣n ư nghĩa lịch sử, c̣n ư nghĩa văn
hóa th́ thuộc về bản Vạn Lịch ra đời
sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm. Bản Vạn Lịch tuy chỉ
nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp
đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cọng
vào đó toàn văn bản Thu Quát.
III - T́nh h́nh sách Minh Tâm Bảo Giám ở
Việt Nam.
Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội
thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều
đại kế tiếp của Trung Quốc đều
duy tŕ ư thức vun đắp cho nền văn hóa và
chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng
văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở
Việt Nam
không thua kém ǵ ở Trung Quốc nhờ sự qua lại
khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới
doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám
có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại
là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ
các nhà xuất bản địa phương không hề
tham gia phát hành, khắc in như đối với các
sách khác - Phần lớn các ông Đồ lại thường
dạy theo trí nhớ thành thử tính chính xác, thống
nhất của văn bản ít đảm bảo. Tựu
trung các sách ấy thuộc hai ḍng chính:
- Ḍng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện
đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách
nầy là "Minh Tâm Mắc".
- Ḍng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ
hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ
c̣n phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh
Tâm Rẻ"
Cả hai sách ấy đều tập hợp những
danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều
câu trong đó đă đi sâu vào cuộc sống đến
mức người không hề học chữ Hán cũng
vẫn nhắc đúng được nguyên văn.
IV - T́nh h́nh dịch ra Việt Ngữ
sách Minh Tâm Bảo Giám.
Sách Minh Tâm Bảo Giám đă được
Trương Vĩnh Kư (1837 - 1898) dịch ra Việt Ngữ
từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có
thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Đoàn Mạnh
Hy, Nguyễn Quốc Đoan, vv... dựa
vào những văn bản khác nhau nhưng đều có
điểm chung là nguyên tác vốn từng được
nhiều thế hệ thuộc ḷng trước khi nó
được giới dịch thuật chiếu cố
(trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị
trường lại thường nhằm ư đồ
giới thiệu những danh tác chưa được
nhiều người biết đến nguyên bản).
Nay chúng tôi dựa vào nguyên bản có vẻ nhiều chữ
hơn (và có lẽ xưa hơn) từng được
Trương Vĩnh Kư chọn dịch cách đây
hơn trăm năm để giới thiệu lại
bằng văn phong hiện đại, cố gắng
nhằm những tiêu chí sau:
a) Coi trọng việc dịch đúng ư, dễ hiểu
hơn là dịch đúng chữ (bởi lẽ trong thực
tế, ngay ở xứ sở của nguyên tác ngày nay
người ta cũng đă phải chuyển cổ
văn ra văn ngôn để giúp người đọc
tiếp cận được tác phẩm).
b) Giới thiệu sơ lược - qua chú thích - một
số tác giả danh ngôn để phục vụ thị
hiếu chân chính của người đọc,
tăng vị đậm đà cho ḷng cảm thông giữa
người nay với người xưa.
c) Bổ sung phần diễn ca cho những đoạn
quan trọng thiết thực để nâng cao hiệu
quả dùng sách (chúng tôi dồn nhiều quan tâm cho tiêu
chí nầy và ở vài chỗ, c̣n cố gắng nới
rộng việc diễn đạt v́ tin rằng chính
việc diễn ca sẽ góp phần đưa Minh Tâm Bảo
Giám "từ trời xuống đất" và
lưu lại dư hương trong ḷng người
đọc.
Trong công việc nầy chúng tôi đă nhận được
qua điện thoại và thư tín nhiều khích lệ
tinh thần và nhiều giúp đỡ cụ thể của
các bạn Hàn Quốc Trung, Châu Quân Vũ, Từ Nguyệt
Hoan, Phan Công Tuấn, Quản Bích Liên, cùng một số
bạn khác. Nếu vắng họ, có lẽ sức ư của
tuổi tác đă chận chúng tôi lại giữa quăng
đường khá hiểm trở của ngôn ngữ
tác phẩm.
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师
<photo>
Trung tuần
tháng 4, 2007.
|