KHI VOI TỎ TÌNH

 

 

 

 

 

 

Lắm lúc rảnh rang suy rõ ngọn nguồn, tôi nhận ra một điều thật chua chát, ấy là đấng tạo hóa trớ trêu hình như cố ý chơi xỏ tôi, cứ xui khiến tôi chứng kiến nhiều điều mà khá nhiều người chưa có dịp chứng kiến, đẩy họ vào cái thế không thể không ganh tị:  "Làm sao hắn ta lại chứng kiến chuyện ấy còn mình thì lại không"?  Hoặc:  "Hắn ta bất quá cũng chỉ "chín tháng mười ngày" như mình, ai cho phép hắn nổi trội hơn mình được nhỉ?"

 

Thế là bao nhiêu công phu hồi tưởng, phục chế này nọ của tôi bị đánh đổi bằng hai tiếng có độ nhấn đàng hoàng, thoạt nghe đã thấy muốn... ngả bệnh dài ngày:  bốc phét!  Có khi lại thay bằng mấy tiếng:  nói xạo!  hoặc:  dóc tổ!

 

Chuyện voi tỏ tình mà tôi sắp kể không chừng lại cũng gây dị ứng kiểu ấy nhưng tôi vẫn phải kể cho tâm hồn mình bớt anh ách như chiếc dạ dày quá tải những món béo bùi, không chịu tiêu hóa ngay cho.

 

Vào khoảng đầu năm 1952, mấy tháng trước khi về quê hương dưỡng bệnh sốt rét, rồi dạy học, rồi "nhập tịch" Nhà lao Con Gà, tôi hãy còn nấn ná một thời gian ở vùng Hòa Khương cùng với ba người bạn đồng lứa, có chung mối sợ bị lôi cổ đi cầm súng đánh thuê cho ông ÐờGôn.

 

Chúng tôi đẵn tre rừng về dựng một căn lán, trang trí nội thất chỉ vỏn vẹn một sạp tre đủ chỗ cho mươi người cả chủ lẫn khách, căng một sợi dây rừng để treo áo quần, góc nhà là nơi để nông cụ, một ít vật dụng linh tinh.  Căn lán ấy, ngay từ đầu chúng tôi đều nhất trí gọi là nhà, không cần phải thông qua biểu quyết để chọn đa số.  Mãi đến gần đây tôi mới thấy cách gọi ấy thật đáng để ngượng quá thể.

 

Vùng này từng đã bị "khủng bố trắng" một thời gian dài.  Lính lê dương ở đồn Ninh An cứ thấy có gì động đậy là "tỉa" ngay, thành thử khi chúng tôi chọn để ở thì vườn hoang, ruộng hoang, rừng hoang khắp cả.  Có lúc chúng tôi còn bắt gặp cả đầu lâu trắng hếu hoặc xương ống chân tay lẫn khuất đó đây trong đám cỏ hoang nữa.  Bốn đứa chúng tôi có lẽ chiếm gần 20% hộ dân cư ở đấy.  Tuy nhiên, hộ nhà nước thì có lẽ hơi nhiều vì có đến hai xã vùng địch, lưu vong các cơ quan và các đơn vị dân quân thoát ly về đấy nữa.

 

Ðể sản xuất lương thực, chúng tôi phải quay về thời kỳ hái lượm một cách vô vọng cùng tiến hành canh tác khá viển vông vì chẳng hề có sức kéo phụ lực (chỉ cần giặc Pháp nống ra xấp xí mươi cây số để đốt phá một chầu là mọi sự trở về điểm xuất phát!)

 

Giữa mùa mít, thế mà hàng chục cây trong các vườn hoang quanh đấy chẳng hề có lấy một quả nào... cho phải phép.  Theo nhịp độ cho quả của loài cây ấy, lẽ ra chúng tôi phải kiếm được vài trăm quả để no đủ quanh năm, thế mà chúng không lộ vẻ gì tỏ ra muốn ra quả cả.  Bốn đứa chúng tôi lần lượt lãnh đủ mọi thứ nọc độc của côn trùng: ong bù vẽ, ong ngựa, ong thổ thần, kiến nhót, bọ cạp, rết. v.v.. mà chả hề gỡ gạc được món gì để an ủi chút nhiệt tình bòn mót cái ăn.

 

Chúng tôi bắt chước các cán bộ thoát ly, tìm vào vùng Ðồng Nghệ để làm lúa nước.  Vùng ấy có đàn voi rừng quần tụ chỗ Sình Ré, nơi bạt ngàn lau lách.  Chúng tôi chưa hề chạm mặt "ngài" nào nhưng căn cứ vào các chất thải rải rác đó đây, có lẽ tập thể nặng nề ấy có không dưới mươi con.

 

Tuy sinh sống ở Sình Ré nhưng chuyện sinh sản của con nhà voi thì nơi ấy lại chả được việc gì.  Ðể vâng theo sự thôi thúc của bản năng truyền giống, voi cái phải tìm nơi thích hợp, nếu không tìm được nơi nào, chúng "trả thù" thật tàn bạo vào cây cối trong rừng bằng sự căm phẫn chứa đầy thú tính, cây cối bị xéo đến xơ xác tóe nhựa đen sì, lều lán bị quật tơi tả, khổ chủ dù có... can đảm quay về cũng không còn mót lại được gì.  Chúng tàn phá khi chưa tìm địa điểm nghe rào rào, răng rắc khủng khiếp một phần thì khi chúng động tình, cao tiếng gào rống nghe khủng khiếp cả mười phần.

 

Vào đầu năm 1952 ấy, chúng tôi được chứng kiến đầy đủ một cuộc tỏ tình... khá sôi nổi, khá kinh khủng của ba chú voi.

 

Một buổi sáng, chúng tôi mải miết dọn ruộng úng thủy ở chân núi, nước ngập ngang bụng, toàn thân chịu sức ép của thứ nước lưu cửu đến sáu thế hệ lá mục, tính từ cuộc tiêu thổ kháng chiến bắt đầu cuối năm 1946.  Chúng tôi phải lội rất vất vả, lại thêm số tạp chất hòa tan trong nước cản trở sự tản nhiệt nên nước nóng lên rất nhanh.  Sau chín giờ là chúng tôi bắt đầu lội trong thứ cháo loãng nóng hổi của tự nhiên ấy.  Cứ lội vào bờ xong lại lội ngay ra ruộng làm tiếp, chúng tôi dùng liềm xẻo từng mảng cỏ lớn hơn một mét vuông, móc mũi liềm vào đấy dắt đi theo bước chân phì phọp, đắp mảng cỏ nọ lên bờ.  Có lần không rõ kẻ nào trong bọn đã cắt luôn một chú đẻn, mãi khi nắng lên cao, mớ khoang đen khoang trắng nọ trương lên bốc mùi, chúng tôi mới phát hiện, sợ đến mất máu.  Về sau mới được một tài liệu nghiên cứu cho biết là nọc độc của loại ấy mạnh bằng 125% loại trên bộ, còn hồi bấy giờ chúng tôi chỉ mới nghe đồn miệng là ai bị loài ấy cắn thì cứ lịm mãi cho đến lúc chết.  Vì vậy chúng tôi mới biết sợ nhưng không rõ nửa kia của chú đẻn nọ đang "ở lại" đám cỏ nào.  Ðành phải bỏ buổi làm và còn chờ thêm một ngày nữa... cho hắn chết đói mới dám tiếp tục kế hoạch.  Có lẽ tôi sợ "đậm" hơn ba đứa kia vì đêm ấy tôi còn chiêm bao thấy vợ rắn trả thù chồng, rượt tôi khắp cánh đồng hoang nọ, một mình mụ rắn rượt một mình tôi, chân tôi thì mỏi nhừ còn mụ thì chẳng có... chút chân nào để mỏi!  (Sau này tôi mới nghiệm ra rằng tôi sợ đậm đến thế chẳng qua là do từ hồi ở Tiểu Học tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện huyền hoặc rằng Thị Lộ vốn là một rắn tinh hiện hình lên để báo thù Nguyễn Trãi).

 

Vừa làm vừa sợ, mắt la mày lét nên năng suất rất tệ, vì vậy chúng tôi phải làm gắng để bù lại, mãi đến 14 giờ chúng tôi mới thất thểu về đến nhà, cái đói hợp sức với cái mệt đã vắt kiệt sức khỏe chúng tôi.  Lăng xăng, lục đục lo xong bữa cơm là chúng tôi vất mình lên sạp nứa, ngủ say như chết.  Cả mụ đẻn có chồng bị chúng tôi "chém ngang lưng" nọ cũng bỏ đi đâu mất, không khéo đã tái giá rồi chưa biết chừng.  Do đó tôi chẳng mất công chiêm bao chiêm biếc gì sất!

 

Ðang ngủ ngon lành, tôi bị nắm chân lay dữ dội.  Ba thằng lay một, đâu phải chuyện vừa?  Tôi lồm cồm bò dậy, nhìn theo hướng mấy ngón trỏ các thành viên còn lại của tổ sản xuất, nhận ra tiếng cây đổ răng rắc, tiếng cành lá quệt nhau rào rào rồi ba khối đen sì lù lù di chuyển theo tốc độ cao thoắt ẩn thoắt hiện, cách chúng tôi ngót bốn khu vườn hoang.

 

Trước đây, khi chọn nơi cất "nhà", chúng tôi có ý tìm những vùng nhiều cây dại tầm sáu bảy mét để ngụy trang vĩnh viễn che mắt mấy "bà đầm già", tức loại phi cơ quan sát bay chậm rì rì của giặc Pháp.  Giờ đây cái "bất cập" của cách chọn ấy mới lộ ra:  cây dại che khuất tầm mắt khiến chúng tôi vô phương theo dõi hành tung của mấy chú voi sùng sục xuân tình ấy, phần "thoắt ẩn" diễn ra hơi lâu làm chúng tôi hơi chợn nhất là khi chúng chạy qua các vạt cây nhỏ, không gây ra tiếng răng rắc, rào rào, dễ nhận biết tình hình.

 

Thình lình, cả bốn đứa chúng tôi đồng "ối!" lên một tiếng hốt hoảng. Từ bãi dã quỳ ở cuối vườn vươn lên cao một chiếc vòi huơ huơ trên không như muốn vét thật nhiều không khí. Rồi hai chiếc vòi khác cũng vươn lên theo, khua khoáng loạn xạ. Mấy cái vòi giương thẳng lên không trung sao mà to đến phát khiếp!

Ba vị khách không mời ấy thình thịch phăm phăm lao đến địa chỉ của bốn đứa chúng tôi. Bảo sợ hãi là "hồn vía lên mây" thì lúc nầy hồn vía tôi có lẽ đã lên tới chữ "m" rồi. (Nếu khoa học chế được một nấc thứ 10!) Chúng xồng xộc thêm chục bước nữa là nhà chúng tôi bẹp rúm kể chắc! Cả bốn đứa chúng tôi chẳng một ai tính đến chuyện... bỏ nhà chạy lấy người, hình như trong một lúc lý trí bất lực, chúng tôi chợt có thứ bản năng của loài rùa, coi mái nhà như cái mai, tự cho rằng nó che chở mình tốt hơn chuyện "phơi mạng cùi" ra chỗ trống trải.

Chỉ cần một tiếng "ràoàoào" nữa là chẳng nhà chẳng nhiếc gì hết, ai ngờ chú voi chạy đầu thoắt lạng đi mấy độ rồi ngoặt hẳn về phía dốc Ồ ồ. Tiếng lào xào, răng rắc nghe nhỏ dần đi rồi bặt hẳn. Quả thật là tiền hung hậu kiết!

Chúng tôi hí hửng suông, bởi lẽ trong nhà chả có thứ gì để ăn mừng hay uống mừng cho việc thoát nạn được cả, đành xoay ra trò chuyện về voi. Té ra một nửa chúng tôi chỉ mới thấy... phân voi ở Sình Ré và voi vẽ trên giấy chứ chưa hề thấy voi thật. Tôi bèn dốc vốn liếng ra kể ba chuyện voi, thay cho món... ăn mừng vậy.

Chuyện thứ nhất là Voi xiếc của đoàn Tạ Duy Hiền có lắm trò ngộ nghĩnh: nào kéo cả đoàn diễn hành, vòi con đi sau cuốn chặt chót đuôi con đi trước, đu đưa như võng, nào ngồi phệt trên ghế tròn giơ vòi lên cao, nào đá banh với chú hề xiếc. Cả ba đứa kia đều chưa coi xiếc lần nào nên trố cả mắt ra nghe nửa tin nửa ngờ.

Chuyện thứ hai là chú voi cái biết ghen của viên Khâm sứ Huế năm 1938. Con voi này tôi chưa hề thấy nhưng viên quản tượng thì ghé nhà tôi chơi rất thường xuyên vì anh ta chả có việc gì để làm ngoài chuyện mỗi sáng mỗi chiều nhận rơm và chuối cây, mía đổ vào máng và bơm nước đầy bể cho voi uống. Công việc nhàn nhã ấy chỉ mất một vài giờ, còn thì anh đi chơi suốt vì viên Khâm sứ cả năm mới đi kinh lý miền núi một vài lần để làm hân hạnh cho đám lý dịch chỉ diện toàn khố thổ cẩm. Viên thư ký là người bà con bên vợ của anh quản tượng, lại là đồng hương nên rất dễ dãi trong việc quản lý anh ta. Ở Quảng Nam, làng anh với làng tôi cách nhau chưa tới một giờ đi bộ. Bố tôi quen biết anh từ trước nên với tuổi lên năm tôi là thứ búp - bê - không - trọ - trẹ cho cả hai người.

Anh vừa mới về quê cưới vợ xong, mang vợ ra Huế hưởng tuần trăng mật. Ngay ngày đầu, anh đã bê trễ việc chăm sóc ăn uống cho voi, lại không duy trì thói quen ngồi cạnh chuồng ân cần độc thoại, hoặc nán lại hàng giờ vỗ về nó như trước.

Ngày hôm sau, đã tới giờ voi ăn mà anh ta vẫn còn ngủ. Voi phá chuồng thò vòi vào nhà anh cuốn người vợ ra quật chết tươi, rồi lấy chân giày lên bầy bá, cất tiếng rống man rợ. Anh quản tượng chạy thoát được ra ngoài kêu cứu thất thanh. Nghe tiếng voi rống, viên Khâm sứ rảo bước rời văn phòng ra trước thềm quát lên một tiếng lớn. Voi liền quỳ hai chân trước, giơ vòi lên cao như nhận lỗi.

Ngay sau đó, một toán lính được lệnh gõ phèng la ầm ĩ, đốt đuốc rực sáng cả vùng trời, xua voi lững thững về tận rừng sâu, miệt Alưới, Nam đông gì đó.

Chuyện thứ ba xảy ra sau đó chín năm tại làng Bình Yên, huyện Quế Sơn, Quảng Nam. Hai chú voi làm nhiệm vụ tải lương thực cho quân đội. Chúng chỉ làm việc về đêm để đỡ bị máy bay địch phát hiện, còn ban ngày chúng được giấu ở hai hàng tre rặm đầu làng và cuối làng. Ðám trẻ con hễ bãi học là chỉ biết có voi, có đứa phải gọi về ăn trưa bằng roi mới chịu phép. Ngay cả người lớn đi ngang đấy cũng dừng lại chuyện trò chốc lát với anh quản tượng không khác gì chỗ thân quen.

Một hôm có đám thôn nữ kĩu kịt gánh khoai sắn vừa thu hoạch trên rẫy về. Họ dừng lại nghỉ chân lẫn nghỉ vai, ngắm voi lẫn ngắm anh lính chăn voi. Hôm ấy tôi cũng theo chân mấy đứa bạn đến đấy xem voi. Thấy lũ trẻ đem mời voi xơi bẹ chuối, cành lá tre, các cô cũng bắt chước đem chạc khoai, ngọn sắn ra mời. Voi không từ khước món nào. Một cô trong bọn tinh nghịch, cứ mỗi lúc voi đưa vòi ra sắp cuốn được ngọn lá sắn là cô ta giật lại thật nhanh, chiếc xích sắt giữ chân làm voi lần nào cũng thất bại và đám trẻ reo hò thích thú. Nhìn đôi mắt hiểm ác của voi, tôi linh cảm có chuyện chẳng lành, toan cất tiếng la lên thì chính cô nọ đã thét thất thanh trước cả ý định của tôi. Voi đã cuốn cô giơ thẳng lên trời rồi quật mạnh xuống. Lũ trẻ ré lên tản sạch. Anh bộ đội chăn voi lóng ngóng, có lẽ mới vào nghề. Khi voi giày xác cô thôn nữ nghịch ngợm kia xong, anh mới tỉnh hồn. Lúc nãy tôi định la lên khi thấy voi tỏ vẻ uể oải, vươn vòi chậm chạp một cách không bình thường, nhưng khi cô gái nọ sán lại gần thêm mãi, trí tôi mới nhớ lại chuyện tàn bạo của con voi viên Khâm sứ Huế ngày trước, nhưng tất cả đã quá trễ.

Tôi đã kể được ba chuyện voi. Còn ba chú voi "khủng bố tinh thần" chúng tôi lúc ấy có lẽ cũng đã vượt dốc Ồ ồ, trực chỉ sang vùng núi non huyện Ðại Lộc từ lâu, chẳng rõ chúng đã giở những trò gì ở đấy. Ngờ đâu từ phía ấy văng vẳng lại tiếng "tét" xé tai rất đặc trưng của loài voi, cứ mỗi lúc một gần, rồi cả ba khối thịt đồ sộ di động nọ lù lù, xồng xộc xuất hiện, lại cũng nhắm thẳng vào trại chúng tôi như trước chứ chẳng thèm chọn lối nào khác, nhưng lần này chúng không quay ngoắt đổi hướng vào giờ chót mà cứ thẳng lối xông lên đạp bẹp rúm căn bếp tội nghiệp của chúng tôi. Tiếng rống của chúng không the thé theo kiểu "tét" mà pha lẫn giọng khàn khàn như tiếng ụa mửa được tăng âm cả triệu lần. Bốn đứa chúng tôi chụm đầu sát nhau trên sạp, he hé mắt nhìn ra chỉ thấy được phía thân dưới có mớ chân màu đen mốc nện thình thịch, bất giác chẳng ai rủ ai chúng tôi bỗng dưng cùng rống lên một tiếng rất bản năng, nghe thật chói chát, chẳng biết có làm cho chúng sợ hay không, nhưng riêng chúng tôi thì thực sự kinh hãi cho kiểu ré mới mẻ ấy của mình. Xa xa vẳng lại tiếng nước sông Diệu Trì bì bõm ầm ào, tôi biết mình đã thoát nạn và hiểu ra mục đích của đàn voi: chúng chạy đúng lối về... bãi hạnh phúc của chúng bên bờ sông Hội vực. Tôi đã có lần quan sát cái nơi kỳ lạ ấy. Phải thừa nhận rằng tạo hóa đã "thiết kế" cái bãi lạ lùng nọ thật rất ư hoàn hảo, thật vừa lòng cho loài voi khi chúng đưa nhau vào mùa tình ái.

Với loài voi, chuyện yêu đương quả là không đơn giản. Cảnh mà tôi chứng kiến thật ra chỉ mới là công đoạn dạo đầu, nhưng nào phải là thứ chuyện có thể tìm thấy ở mọi nơi, mọi lúc?

Sau đó mấy hôm, tôi mới nhận thêm một thông tin đáng giá:

Ấy là "tỏ tình" thì chuyện của voi nhưng… "thỏa tình" thì lại là chuyện của người.

Cuộc tỏ tình ấy nghe nói là đã tạo điều kiện cho Ban quản lý kho thóc Nuôi quân của Huyện trình báo lên trên rằng có đến 12 con voi phá kho thóc xơi một mạch hết 12 tấn thóc!

Mọi việc trót lọt vì đa số các vị lãnh đạo bấy giờ là những người chưa hề thấy voi ăn thóc và rất tin vào sự trung thực mà họ cho rằng đã làm cấp dưới thì bao giờ người ra cũng thừa thãi thứ đức tính ấy.

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吳文赖老师  <photo>

Trung tuần tháng 5, 2007.

 

 

 

 

 

 

请阅读吳文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

 

 

 

 

 

 

***  投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở & hình ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

http://KhaiMinh.org

 

 

 

 

Copyright © 2005 - 2007 KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer