HĂI HÙNG TUỔI THƠ

 

 

 

 

 

 

Năm 1992, mẹ tôi đă 87 tuổi, đau ốm trầm kha, không c̣n đi lại được nữa, ăn uống cũng miễn cưỡng, cả ngày nằm một chỗ, nói toàn chuyện chết.  Các bà bạn thân ngày trước, nay kẻ mất đă lâu, người c̣n cũng theo con cháu ở xa, chẳng có ai qua lại khuây khỏa.  Dấu hiệu trầm cảm ở bà bộc lộ khá rơ.

 

Tôi sực nhớ đến ông Lăo Lai trong sách Nhị thập tứ hiếu (có sách chép tên ông là Lăo Lai Tử, người nước Sở thời Chiến Quốc ở Trung Hoa, tính đến nay đă 28 thế kỷ).

 

Vào ngày Tết, ông ta xúng xính quần áo hoa hoét ḷe loẹt, chạy lon ton dưới thềm, hoa chân múa tay nghêu ngao những câu đồng dao cũ kỹ, đôi lúc c̣n nhảy nhót vấp ngă, ôm mặt khóc hu hu khiến cha mẹ cười lăn cười ḅ, cảm thấy thời gian trôi ngược về cái thuở họ c̣n đầu ấp tay gối mặn nồng, quên béng cả hai đều đă gần kề miệng lỗ.

 

Tôi bắt chước ông ta chắc là không ăn thua ǵ v́ tuy đă gần chín mươi, mẹ tôi vẫn c̣n thừa minh mẫn để vạch mặt tṛ bịp bợm.  Thế nhưng tôi cũng t́m được cách làm cho tôi, có vẻ chính nhân quân tử hẳn hoi.

 

Một hôm cùng ăn cơm với bà, tôi hỏi:

 

- Mẹ c̣n nhớ hồi xưa v́ sao bắt tôi bú chực hoài hoài vậy không?

 

Thấy bà đăm chiêu, cố nhớ một cách thật khó nhọc, tôi gợi ư:

 

- Cái bà gầy teo, mặc chiếc áo chàm vá quàn bạc màu, hai ống chân lở loét hôi hám, ruồi bu đen thành đàn đó!

 

Trán mẹ tôi có vẻ giăn ra cho một nụ cười nhẹ:

 

À à, tao nhớ ra rồi!  Bà Hương đó!  Bả là bạn tao.  Bà ta đau chưn cả đời cho tới chết, tao tin tưởng bà nên giao nhà cửa và giao luôn cả mầy cho bả chăm sóc.  Tao phải ngược xuôi như kẻ buôn bán chai bao ngày nay, đi tận đầu non góc núi nên phải lên đường từ lúc mầy c̣n chưa dậy, về đến nhà lúc mầy đă ngủ kh́, chỉ có dịp giỗ, tết tao mới ở nhà thôi.

 

Năm 2003, nhân tham gia một cuộc Hội thảo ở Huế, trọ cùng pḥng với một Viện phó mới về hưu của một Viện nọ, tôi chủ động gợi chuyện cho không khí sơ giao đỡ tẻ nhạt:

 

- Đă có lúc nào anh thử nghiên cứu khả năng tích lũy hoài niệm xảy ra ở lứa tuổi nào chưa?  Bản thân anh, tự nhận nó xảy ra lúc mấy tuổi?

 

Anh ta suy nghĩ một lát rồi đáp lừng khừng:

 

- Tôi chưa hề đọc thấy tư liệu nào bàn về điều ấy, nhưng theo tôi, sớm nhất cũng phải đến năm, sáu tuổi tùy người.  Phần tôi, tôi chưa thử kiểm tra ḿnh.  Kể cũng là một đề tài nghiên cứu hay hay đấy, tuy nhiên lại khó thí nghiệm, khó kiểm chứng quá.

 

Tôi trầm ngâm:

 

- Lạ thật nhỉ!  Có lẽ nào tôi phải làm người đầu tiên đề cập vấn đề ấy?  Xưa nay kẻ đi đầu không bị lên giàn hỏa như thời trung cổ th́ cũng bị ganh tị, kích bác, bầm giập một đời.  Nghiên cứu việc h́nh thành nhân cách là điều mà Tâm lư học, Xă hội học Âu Tây đào sâu từ mấy trăm năm nay rồi mà!  "Tôi sinh ra quá trễ trong một xă hội quá cũ"  Alfred de Vigny đă rên rỉ như vậy từ đầu thế kỷ 19, lẽ nào người ta lại bỏ quên một việc quan trọng như thế đến tận thế kỷ 21 nầy?  Chắc chắn là đă có rất nhiều người bàn đến rồi.  Phần tôi, tôi nhớ rất rơ ḿnh đă bú nhờ người khác, và bấy giờ tôi đă phản đối việc ấy thật quyết liệt bằng cách khóc rất ghê.  Bấy giờ tôi chưa nói được, có lẽ chưa đủ một năm tuổi.

 

Anh Viện phó nh́n thẳng vào mắt tôi:

 

- Có thật thế không?  Khó tin quá!

 

- Chính mẹ tôi cũng không tin nhưng bà xác nhận tôi tả đúng màu chiếc áo vá và đôi chân sâu quảng của người đàn bà cho tôi bú nhờ hồi ấy và bà ta đă qua đời khi tôi mới lên ba, con út bà mới lên sáu.  (Chi tiết này th́ các con bà ta thừa nhận là chính xác tuyệt đối).

 

***  Tiếp… ***

 

- Lạ nhỉ!  Như thế th́ không tin cũng không được.  Tôi chưa nghe thấy chuyện tương tự bao giờ!  Có lẽ anh là trường hợp cá biệt đấy!  Lại c̣n kỳ lạ nữa.  Biết nhớ từ khi c̣n chưa biết nói.  Tuyệt!  Thế là tôi tiếp thu được một dữ kiện mới cho tri thức bản thân.

 

Cũng noi theo ư đồ của Lăo Lai, một lần khác tôi hỏi mẹ:

 

- Mẹ có c̣n nhớ khi mới đẻ thằng Q, một hôm chó cả xóm chạy hết vô nhà ḿnh đông nghịt, rượt cắn nhau ầm ỹ.  Hai anh em khóc rát cổ, c̣n cha mẹ đi đâu biệt tăm?

 

Bà đáp không cần nhớ lại:

 

- Quên sao được?  Ổng với tao về tới nhà th́ cả hai đứa đều đă ngủ kh́, đồ đạc tan hoang.  Năm ấy có dịch chó dại, cả làng đều bị.  Sau đó chó lần lượt chết sạch mới hết được dịch.  Trời làm hạn hán gay gắt nên bao nhiêu người lớn đều phải kéo ra đồng cứu lúa, khoai.  Trẻ con ở nhà được nhốt kỹ, cài cửa thật chặt thôi.

 

- Cài chặt sao chó c̣n chui vào?

 

- À, Cũng tại ỷ y vào cái gốc mít quỳ.  Tấm phên sau hồi ấy chỉ thủng có một lỗ nhỏ bằng miệng bát chớ mấy!  Lại có gốc mít đứng sát đó che chắn nữa.  Cứ tưởng chó chạy rông th́ không thể nào kịp nhận ra chỗ thủng ấy, mà có nhận ra th́ chẳng lẽ hất nỗi gốc mít để chui?  Ai dè đă điên th́ cái ǵ cũng làm được...

 

Trời đất!  Ở tuổi gần chín mươi mà mẹ tôi tư duy và phát biểu sặc mùi hàn lâm! "Điên th́ cái ǵ cũng làm được"?  Đấy là tính cách của con người chứ đâu chỉ có chó?  Trí tuệ của bà vẫn c̣n sắc như dao cạo!  Chuyện của sáu mươi năm trước, bà nhớ như nh́n nó diễn ra sờ sờ trước mắt.  Tôi cho rằng trong việc nhớ lại này có sự tham gia của t́nh mẫu tử nữa mới củng cố cái nhớ của bà vững vàng đến vậy.

 

Kể về trí nhớ của ḿnh, quả là bà đă khiến tôi phải phục lăn.

 

Hồi tám, chín tuổi ǵ đó, ở cạnh nhà có một cụ Đồ.  Bà thường cơng em chui rào sang hè sau nhà cụ chơi, v́ cả xóm chỉ có nơi ấy là sạch sẽ, không trồng rau, có chỗ cho bà chơi tṛ nhảy ḷ c̣ một ḿnh, lại có thềm hè cho em "ngồi thiền" xem chị chơi, và chị bảo vệ được em khỏi bị trẻ khác bắt nạt.

 

Tấm phên sau thật chắc, đan bằng những thanh tre chuốt dày nên nh́n qua kẽ phên trông rơ mồn một cảnh học tṛ lắc tới lắc lui khi học bài, hoặc nằm sấp lên mặt chiếu cho thầy quất đen đét bằng ngọn roi cày, tức loại roi mây dài ngót vài thước.  Những lúc chán nhảy ḷ c̣, bà dán mắt vào phên mải mê quan sát cảnh ấy, và lắng tai nghe thầy Đồ cất giọng bổng trầm giảng bài.  Không ngờ nhờ vậy bà thuộc ḷng dễ dàng, tuy chỉ đọc lau láu phần phiên âm chứ không hiểu mô tê ǵ sất.

 

Sáng sáng, cảnh bà thích ḍm lén là việc thầy ḍ bài giảng ngày hôm trước.  Cậu nào quên, cứ ngắc ngứ đến lần thứ ba là roi mây bay tới ngay.  Mỗi cậu có một cách chịu đ̣n chẳng ai giống ai, mỗi roi vút đi cũng có một hiệu quả khác nhau hẳn:  cậu này xuưt xoa, quưnh quíu đưa hai tay che mông, cậu kia thút thít luôn đưa mu bàn tay chùi mũi, lại có cậu hu hu kêu mẹ liên tục...  Cảnh ấy nh́n không chán mắt.  Lắm cậu học bài thật tệ, khi đọc chường - tức trả bài thuộc ḷng - quên cả sáu, bảy lần.  Thế là bà ghé miệng vào phên nhắc khẽ.

 

Thầy đồ rất bằng ḷng khi sức nhớ bài của học tṛ tiến triển khá rơ.  Thế nhưng đến một hôm nọ, cả lớp chả cậu nào đọc chường trơn tru, kẻ khá nhất cũng phải nhận vài ba roi.  Gạn hỏi đêm hôm trước tại sao không học kỹ th́ mỗi cậu trả lời một cách, chẳng chút thuyết phục.  T́nh h́nh tệ hại ấy kéo dài suốt mấy ngày liền và ông liên hệ đến một sự cố:  "Con bé" láng giềng bận ở nhà săn sóc em ốm, không cơng em đi chơi như mọi hôm.

 

Khi "con bé" nhảy ḷ c̣ trở lại ở hè sau, ông Đồ cố giảng bài bằng giọng thật trầm, thế nhưng các cậu học tṛ lại cố gào bài thật to.  Hôm sau, trong buổi trả bài, có cậu mắt cứ láo liên nh́n về phía phên sau, ông tức tốc ṿng ra hè vụt một roi và "con bé láng giềng" lănh trọn, khóc toáng lên, hối hả cơng em chạy về, bỏ hẳn thú nhắc lại.

 

Nghe bà kể tôi thừa nhận là thứ chuyện lạ hiếm có, thế nhưng quan sát lối kể, tôi thấy bà tỏ vẻ hơi ngượng về tṛ trẻ con của ḿnh của thời xa lắc xa lơ.  Theo bà, h́nh như chỉ có ngọn roi mây ngày ấy mới thực sự là đáng nhớ một cách nghiêm túc.

 

Với trí nhớ ngoại hạng ấy, bà kể cho tôi biết trong xóm nhà nào có ai bị chết, trong làng nhà ai, xóm nào bị bệnh nhiều bao nhiêu v.v.. na ná chuyện thần đồng Lê Quư Đôn giúp viên lư trưởng làng Duyên Hà phục chế cuốn sổ thuế sau cơn hỏa hoạn.  Không rơ bà đă nhớ đúng được bao nhiêu phần trăm trong tổng số nạn nhận dịch dại năm ấy?

 

Chuyện bà kể làm tôi cảm thấy quá chua xót.  Th́ ra ôn dịch từng đă hoành hành một thời, giết người quá đỗi bừa băi, đến nỗi ngôn ngữ dân gian thể hiện mối căm hờn ấy qua những câu rủa:  "Đồ mắt dịch!", "Đồ dịch vật!", "Đồ ôn dịch!", v.v..

 

Tôi thử h́nh dung cái năm dịch dại hăi hùng ấy.  Nhất định là có những đêm khuya khoắt, trăng lặn sao mờ, gió đưa tiếng chó tru rộ lên khắp miền và có những ngày trời nắng chói chang, nhà nhà cài chặt cửa nẻo, hồi hộp lắng nghe tiếng chó rượt nhau, tiếng thở hồng hộc khiến cho đàn bà trẻ con sợ mất mật.  Cũng may là bệnh dại chỉ truyền theo đường thần kinh nên sự thiệt hại nhân mạng không quá đỗi tàn khốc như dịch tả, đậu mùa.

 

Đọc sử ta từng biết trận dịch tả khủng khiếp đă từng làm vơi hẳn dân số trong nước vào cuối thời Gia Long, cướp đi tính mệnh cả Gia Long lẫn Nguyễn Du cùng bao danh nhân khác.  Từ Hà Tiên đến Bắc Thành người chết la liệt, và cái năm 1820 ấy, ngân khố thu được hơn 192 vạn quan tiền th́ đă phải chẩn cấp ngót 73 vạn, tức vơi hẳn 38% tiền trong quốc khố.  Có lẽ đấy là một dạng kỷ lục khó thể vượt qua!

 

Với dịch chó dại mẹ tôi đă kể, bản thân tôi cũng hứng chịu hăi hùng một trận nhớ đời.

 

 

Bấy giờ em tôi c̣n nằm nôi, có lẽ vài ba tháng tuổi ǵ đó.  Tôi th́ chưa biết nói và chỉ lớn hơn hai tuổi (Tương truyền ông ngoại tôi c̣n giữ kỷ lục chậm nói dễ nể:  măi đến năm lên chín ông mới biết nói!)  Cha mẹ tôi ra đồng tát nước ruộng cao nên phải đi đủ đôi mới sử dụng được gàu dai.  Anh em tôi được "xử lư" bằng cách treo nôi em tôi là là mặt bộ ván, c̣n tôi th́ bị "cố định" bằng một dây thừng cột kỹ cổ chân với móc treo nôi.

 

Bên ngoài, trời nắng gắt.  Tiếng chó ăng ẳng đuổi cắn nhau.  Em tôi giật ḿnh khóc thét làm tôi phải rung rung dây nôi thay cho hát ru.  Th́nh ĺnh nghe "soạt" một tiếng lớn, một con chó trắng có bộ mặt vá đen tuôn xộc vào nhà, kéo theo cả đàn vàng, vện, bướm, mực đông nhung nhúc, chạy tới chạy lui va nhau ủng oẳng.  Con chó trắng to lớn, bắc hai chân trước lên mép ván, cố phóc lên nơi phát ra tiếng khóc nhưng hai chân sau không c̣n sức nên cứ vần quanh bộ ván t́m thế thuận tiện.  Các con khác cũng bắt chước nhưng không con nào chạm nỗi đến mép ván nên lố nhố chạy quanh, gầm gừ nhe răng trắng nhởn, nhận ra rất rơ trong bóng tối mờ mờ của gian nhà kín cửa.  Lũ chó cứ chạy quàng cả một lúc lâu làm rơi rớt, ngă đổ mọi đồ đạc trong nhà, thêm vào đó là tiếng thở ph́ pḥ nghe càng thêm hăi.  Tôi khóc lạc cả giọng.  Đàn chó chạy như đèn cù một hồi lâu mới t́m lại được chỗ chúng chui vào lúc năy.  Chúng ùa ra nhanh c̣n hơn lúc ùa vào.

 

Anh em tôi đă dứt khóc v́ quá mệt và đói rồi thiếp đi chẳng biết ǵ nữa.

 

Đời tôi c̣n gặp vô số lần khác phải sợ, nhưng có lẽ chỉ lần đó mới thật là hăi hùng nhất, bản năng nhất.

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吳文赖老师  <photo>

Việt Nam, Tháng 10, 2007

 

 

 

请阅读吳文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org