NHỮNG NÉT CHÂN DUNG
TỰ HỌA BẰNG THƠ
CỦA DANH SĨ
CAO BÁ QUÁT
(1809 - 1854)
Cao Bá Quát (1809 - 1854) là nhân vật
lịch sử rất mực nổi tiếng về
văn chương dưới thời Thiệu
Trị, Tự Đức triều Nguyễn và tác phẩm
của ông từng được đưa vào
chương tŕnh giảng dạy văn học ở
hai bậc Trung học Đệ nhất và Đệ nhị
cấp một thời gian dài trước đây.
Ông người làng Phủ Thị, huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nổi tiếng học
giỏi nhưng chỉ đỗ cử nhân.
Nhờ có quan đầu tỉnh tiến cử ông mới
được làm quan vào năm 32 tuổi. Ngay
năm ấy, ông được cử chấm thi
trường Thừa Thiên và bị kết án tử h́nh
về tội chữa bài thi. Sau đó án
được giảm, ông bị an trí ở Ngũ
Hành Sơn (Đà Nẵng) một thời gian rồi
"ṭng quân hiệu lực", làm lính tạp vụ
trong sứ đoàn đi Hạ Châu (Singapore). Xong
công vụ ấy, ông được phục chức
như cũ. Lúc ra làm Giáo thụ phủ Quốc
oai (Sơn Tây) ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lê Duy
Cự (giặc Châu chấu) với cương vị
Quốc sư và hy sinh khi đụng độ
triều đ́nh.
Dự luận bấy giờ suy tôn ông cùng
bạn chí thân của ông là Nguyễn Văn Siêu làm
"thần Siêu, thánh Quát". Thơ văn Cao Bá
Quát bị cấm lưu trữ một thời gian dài
nhưng ngày nay người ta vẫn thu gom
được ngót 800 bài thơ, hàng chục bài văn
hầu hết viết bằng chữ Hán, chỉ có
một bài phú và hai bài hát nói được viết
bằng chữ Nôm th́ cả hai bài đều từng
được đưa vào chương tŕnh dạy
Văn.
Thơ văn ông rất xứng đáng với
ḷng suy tôn của quần chúng, do đó nảy sinh
nhiều giai thoại xuyên tạc sự thực về
đời ông khiến nhiều giáo tŕnh trước
đây dựa vào những giai thoại ngụy tạo
ấy trở nên kém chuẩn xác, thiệt hại uy tín
khoa sử học.
Bài viết này dựa vào thơ văn Cao Bá Quát
để hóa giải khá nhiều "huyền
thoại" lệch lạc từng đă gây ra tranh
căi bấy lâu.
Tác giả
* * * * * * * * * *
Người Trung Quốc quan niệm
"Thần long kiến thủ bất kiến
vĩ" (Rồng thần chỉ thấy
được đầu, không thấy
được đuôi - Ngạn ngữ). Với
nhà thơ lớn Cao Bá Quát cũng vậy, người
ta chẳng mong ǵ gặp một người
"Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang -
chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng" (1)
như Nguyễn Khuyến, hoặc là một
người "Ở phố hàng Nâu có phỗng sành -
Mặt th́ lơ láo mắt th́ nhanh" (2) cùng dung nhan
"Râu rậm như chổi, - Đầu to tày giành"
(3) của một Tú Xương, thế nhưng chúng ta
cũng dễ dàng tiếp cận được
một phần con người sinh học cùng tính cách
một đời của Cao Bá Quát qua những dấu
vết ông để lại trong thơ.
Cao Bá Quát đă khái quát đời ông bằng bài
thơ B́nh sinh ngũ thập vận (năm mươi
vần về cuộc đời ḿnh). Chúng ta có
thể quan sát dung nhan Cao Bá Quát bắt đầu
từ tư liệu ấy.
Thân phụ Cao Bá Quát (ông Đồ Cao Cửu Chiếu)
đă sớm nhận ra rằng tài năng của Cao Bá
Quát phải được nới lỏng về
quản lư th́ mới đạt mức phi
thường và Cao Bá Quát cũng đă thú nhận
như thế:
B́nh sinh lậu câu kiểm,
Hốt nhược phiếm giá mă.
Chí kim thường thiên chấp,
Do viết như ngă khả...
(BSNTV - Câu 1 - 4)
Dịch thơ:
Cả đời lơi g̣ bó,
Như ngựa thắng nới cương.
Nay vẫn c̣n lệch lạc,
Cứ cho ḿnh đúng đường.
Cách quản lư ấy của cụ
Đồ Chiếu đă phát huy được hiệu
quả đúng theo mong muốn.
Tân tỵ phát
hương tuyển,
Thùy điều căn trưởng giả.
Hướng địch dũng sở tiền.
Lạc bút kinh tứ tọa.
Tu danh tuy vị lập,
Độc văng ư dĩ quả.
(Bđd - Câu 9 - 14)
Dịch thơ:
Đỗ thi hương Tân Tị,
Tóc chỏm giao du quan.
Luôn xốc lên phía trước.
Bút vung, người khen ran.
Danh lớn tuy chưa lập,
Quá khứ cũng huy hoàng...
Cao Bá Quát sinh năm Kỷ Tị 1809,
vậy đến năm Tân Tị (1821) ông đỗ
thi hương tức nhằm vào lúc ông 12 tuổi và có
lẽ bấy giờ ông mới đỗ Tú tài (cho nên
ông vẫn c̣n phải thi tiếp nhiều khoa
hương nữa để đỗ cử nhân vào
khoa Tân măo 1831). Ở tuổi mười hai tóc c̣n
buông xơa (thùy điều) ấy, họ Cao đă
phải giă từ cuộc sống hồn nhiên của
trẻ con, để dấn thân vào thế giới
người lớn (căn trưởng giả) là
những kẻ có cùng tŕnh độ, cùng đẳng
cấp xă hội với cậu. T́nh cảnh
ấy đă bắt đầu buộc cậu phải
đối phó bằng tính hiếu thắng, phải
trổ tài thi tửu, sao cho khỏi lép vế (Luôn
xốc lên phía trước - Bút vung, người khen
ran). Chính khoa thi hương năm Tân Tị 1821
ấy đă cướp mất cái hồn nhiên trong
trắng vốn có của tuổi mười hai
để biến Cao Bá Quát thành danh sĩ bất
đắc dĩ, buộc phải cố tỏ ra không
thua kém ǵ người lớn. Đó chính là thảm
kịch tác động rất nhiều đến tính
cách ông về sau. Chính ông đă tự nhận ra
thảm kịch "Tóc chỏm giao du quan" ấy
của đời ḿnh.
Tiếp tục thăng tiến trong điều
kiện "lơi g̣ bó" đó, ông đạt
được kết quả khá mỹ măn trong học
hành:
Tự tư
sự tảo hàn,
Điệt đăng xuất đào dả.
Lược khuy thời văn lư,
Tao thám ly long lơa.
Văn tông cập hương tŕnh,
Xi điểm thường lỗi khả.
(Bđd - Câu 15 - 20)
Dịch thơ:
Từ đấy theo chữ nghĩa,
Lại càng thoát buộc ràng.
Xem lướt văn thời thượng,
Ngọc rồng đen tỏ tường.
Học hành đến thi cử,
Vẫn nổi trội như thường.
Ông lại tiếp tục học giỏi,
hiểu nhanh, tức là rơi vào cảnh ngộ
"thầy yêu bạn... oán" để rồi
cả đời luôn chuốc lấy đố
kỵ, c̣n với ai đạt được mối
tâm giao th́ trở thành tri kỉ tri âm sâu nặng mà ông
thường họa thơ, tặng thơ khá
đều đặn, khá đông đảo, từ hạng
đại quư nhân, chú ruột vua Tự Đức như
Thương Sơn Công Tùng Thiện Vương
Nguyễn Phúc Miên Thẩm cho chí anh gia nhân tầm
thường Đoàn Tính của cụ Đồ, từng có
quá khứ theo nghề hề chèo.
Giai đoạn làm mát ḷng ông nhất là những
năm bắt đầu cuộc đời làm
quan. Bấy giời chung quanh ông toàn là những
bậc tài năng, có giá trị trong xă hội như
Tùng Thiện Vương, Nguyễn Văn Siêu, vv...
Mậu đăng tú tài tịch,
Truất ức phi ngă xả,
Hoàng hoàng hiển chủ ty,
Thử ư thức sở hạ.
(Bđd - Câu 21 -24)
Dịch thơ:
Nhập tịch hạng tài giỏi,
Ta thận trọng muôn vàn,
Chủ ti khá rạng rỡ,
Thực là được ơn ban...
Đấy là thời kỳ phát huy đúng mực tài
năng ông. Với ngạch Hàn lâm viện Biên tu,
làm Chủ sự (ngang hàng Đồng tri phủ nhưng
khỏi bị cuốn vào đám thư lại nịnh
nọt) ông được giao việc biên tập sách
vận học là việc rất đáng tự hào (v́
Thiệu Trị và Tự Đức là hai hoàng đế
hay chữ nhất triều Nguyễn):
.... Cư nhiên nhất mệnh vinh.
Thi truyền thiên lộc phú,
Quan tương Ngọc đường thanh.
Đắc lộ chiêm hào tuấn,
Vô tài đáp thánh minh.
- Đắc bổ Hàn lâm sung biên tập vận học
hỉ nhi thành phú.
Dịch thơ:
.... Kể ra mạng cũng vinh,
Sách vở trời ban lộc,
Hàn lâm dễ thanh liêm.
Được dịp xem hào tuấn,
Không tài đáp thánh minh.
- Được bổ vào ban biên tập vận học
của viện Hàn Lâm, mừng viết nên bài.
Chỉ một thời gian sau, Cao Bá Quát cảm
thấy ḿnh rơi vào cảnh lạc lơng tệ
hại, khó thể hội nhập tầng lớp quư
tộc lẫn giới quan trường bấy
giờ, ông t́m đường quay lại nếp
sống giao du phóng khoáng tự do mà ông nếm trải
ngót mười năm khi chưa ra làm quan (1831 -
1841). Ông than thở:
Mang mang ngô hà tư?
Chu lăm nhất minh sá.
Viết dư tiện thả chuyết,
Cập quan chí dĩ phả.
Thoát lược công danh đồ,
Lưu đăng thi tửu xă.
Văn chương bách niên định,
Động chỉ dữ thế tả.
(Bđd - câu 79 - 86)
Dịch thơ:
Đời ta thật bế tắc,
Muốn thét tiếng kêu thương.
Rằng ta hèn lại vụng,
Sớm nuôi chí quật cường.
Công danh dịp buông thả,
Toàn thi xă, tửu hương.
Trăm năm văn mới đọng,
Tiến, dừng trái đời thường...
Trên đây là phần chân dung hiểu theo nghĩa
rộng. Dưới đây mới đích thực
là chân dung họ Cao hiểu theo nghĩa đen thông
thường.
H́nh ảnh đầu tiên dễ nhận diện
ông nhất, đấy là một con người bệnh
hoạn trầm kha:
Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng...
- Bệnh trung.
(Nghĩa: Xuân đến, tâm lẫn sức
đều đáng ghét cả hai - Trong cơn bệnh)
Vào cái dịp mà thiên nhiên đầy vẻ
tưng bừng sôi nổi, nhựa sống dâng tràn, cái
đẹp được phô ra hết công suất,
người người, nhà nhà đều muốn làm
thơ, chơi câu đối, vv... thế mà cái kẻ
xứng đáng nhất, hăng hái nhất, tài hoa
nhất, là "thánh" của người
đời th́ lại phải chịu t́nh cảnh tâm
suy lực cạn một cách đáng ghét. Có lẽ người ta
chẳng khó khăn ǵ nếu muốn h́nh dung ra vẻ
cay cú rất đời thường của tác
giả, ngay vợ con của tác giả chưa chắc
vui xuân b́nh thường khi "chân dung"
người chủ gia đ́nh lại thê thảm
như vậy!
Trên đây, người dịch cố t́nh
chọn một lối ṃn của ngôn ngữ để
dễ đưa vào ḷng người đọc -
Kỳ thực, "lưỡng kham tăng"
phải hiểu là "cả hai chịu ghét". Tại sao lại
"chịu"? Ấy
là v́ hằng ngày cả hai được cưng
chiều tối đa!
Khi cái tâm đ̣i hỏi là cái "thân" răm
rắp phục tùng, thỏa măn tối đa, thế mà
nay thiên nhiên quyến rũ đến thế, đáng
để "gọt chữ gieo vần"
đến thế mà Tâm lại thờ ơ! Thế là cái Thân thôi yêu quư
nuông chiều cái Tâm!
Lại c̣n ghét cả cái Lực là cái vốn
rất tận tụy với cái Tâm. Người đọc
cần suy ngẫm theo kiểu "chẻ tóc làm
tư" như thế th́ mới hiểu nguyên nhân
người đời suy tôn họ Cao là thánh.
Cao Bá Quát ghét Tâm và Lực của ông v́ chúng không
tuân lệnh cái Thân của ông, lại đi kết thân
với bệnh tật:
Ngư tại bồn dâm, điểu tại phàn,
Nhất thu tiêu khát trệ văn viên.
- Nhàn cư phụng giản chư hữu.
(Nghĩa: Cá ở
trong bồn đầy nước, chim ở lồng -
Một mùa thu tiêu khát làm ngưng trệ vườn
văn - Ở không, viết gửi các bạn)
Tiêu khát tức là bệnh tiểu
đường. Trong bài
"B́nh sinh ngũ thập vận" ông đă dành câu
83 - 84 để thú nhận ḿnh "Thoát lược
công danh đồ - Lưu đăng thi tửu xă" (Công
danh dịp buông thả - Toàn thi xă, tửu hương)
Th́ ra giới "công danh" thời ấy
cũng giỏi rượu!
Khi đă dùng rượu làm chất xúc tác cho
cuộc sống th́ người ta tán thưởng nhau
bằng rượu, khiển trách nhau bằng
rượu, và càng dùng rượu người ta càng
cần thức nhắm để rồi gây rối
loạn cho cơ thể, đưa tới "tiêu
khát" làm "trệ văn viên"! Vô hiệu hóa Tâm và Lực!
Một kẻ sĩ cuồng phóng, miên man với
nếp sống phiêu bồng trong vô số cuộc
"hồ hải cựu du" (những cuộc ngao
du hồ hải cũ) mà ông từng nhắc trong bài
Nhân họa Thu Minh lưu biệt Doăn Trai chi tác thế
mà có lúc đành phải nằm một chỗ, chịu
cảnh "cá chậu chim lồng" mất cả
năm trời (Nhất thu), không họa thơ, không
tặng thơ lưu biệt (thơ người
đi tặng người ở) khiến vườn
văn ứ lại không có ai lo việc "tiêu úng"
cho!
Trong bài thơ khác Tặng Thổ khối Vệ
úy xuất Thanh Hóa (tặng Vệ úy người làng
Thổ khối ra Thanh Hóa)
Cao Bá Quát tiết lộ thêm một bệnh khác của
ông:
Trừu đáo can tràng không thị huyết
(Rút đến ruột gan chỉ toàn là máu)
Có lẽ ư thức rằng thói quen biểu
đạt của ḿnh dễ khiến người
đọc hiểu câu nọ theo nghĩa bóng nên họ
Cao đă phải tự chú thích: "Ta mắc chứng
tiểu ra máu ngót năm nay, chuyện ấy sao không nói
thật cho được?"
Đă tiểu đường, lại tiểu ra máu,
quả là "hai trong một" theo kiểu nói bông
lơn ngày nay! Ông ghét
"lực" th́ lực cũng chẳng
thương ǵ ông!
Đến nỗi chải đầu ông phải
nhờ vợ, cất bước phải tựa vào
con:
Chuyết thê ư chẩm sơ bồng phát,
Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng.
- Bđd.
(Nghĩa: Vợ vụng tựa gối chải
tóc bờm xờm - Con dại dắt áo nhàu nḥ chỗ
tay co)
Để cho vợ con phải bận bịu
chăm sóc ḿnh, nhất là vợ dại con thơ
(bản thân ông chỉ mới ngoài ba mươi
tuổi!) có lẽ đó
là điều làm ông khổ tâm không ít. Sự cưng quư vợ con
của ông biểu hiện rơ trong việc đặt
tên cho họ. Ông xưng
hiệu là Nguyên Long (rồng đầu đàn) th́ ông
"ban hiệu" cho vợ là Long Châu (ngọc
rồng) c̣n con th́ ông mong cho chúng không bế tắc
như ḿnh nên đặt tên Bá Phùng (gặp thời) Bá
Thông (không nghẽn tắc), thế mà mới tí tuổi
đầu (trĩ tử) các cậu bé đă phải
bám khuỷu tay áo của bố để giữ cho
bố khỏi xiêu bước! Có lẽ ông "ốm" tâm hồn c̣n
trầm trọng hơn ốm thân xác!
Bệnh tật tai ác đă giam chân ông trên gác
vắng, khiến cho ông cảm thấy như bị
nhân loại bỏ rơi, chịu bơ vơ trong
vũ trụ, lơ lửng giữa lưng chừng
trời:
Thành thị huyên ti địa,
Càn khôn lăo bệnh phu.
- Độc dạ.
(Nghĩa: Đất
thành thị ồn ào dưới thấp - Bệnh nhân
già ở giữa cơi càn khôn - Một ḿnh trong đêm)
Người Pháp có một kinh nghiệm khôn ngoan
về việc đối phó nghịch cảnh. Ấy là, "nếu không có
cái anh thích th́ hăy thích cái anh có". Cao Bá Quát đă "tự thân vận
động" để rút ra điều minh
triết ấy. Cái
căn gác "lưng chừng trời" của ḿnh,
ông đă... "sang trọng hóa" cho nó thành lầu
phượng hoàng:
Sóc phong xuy đáo phượng hoàng lâu...
- Phạm kinh doăn nhục quư hải vật...
(Nghĩa: Gió
bấc thổi đến lầu phượng hoàng...
Quan kinh doăn họ Phạm biếu món ăn biển)
Chúng ta có dịp gặp lại nét chân dung kiêu
ngạo quen thuộc của Cao Bá Quát. Khi khỏe mạnh, ông làm con
rồng đầu đàn vẫy vùng bốn biển
th́ khi bệnh hoạn, ông làm "con phượng hoàng ở
chót vót đỉnh núi cao" núi đó là căn lầu
lơ lửng giữa trời (càn) và đất
(khôn)! Vào những phút giây
ấy, ông đau đáu nhớ cố hương
miền Bắc do "sóc phong" từ phía ấy khêu
gợi. Điều ấy
ông đă bộc bạch với các bạn:
Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian,
Phàn lung thê điểu vị tri hoàn.
- Để ngụ bệnh trung giản chư
hữu.
(Nghĩa: Chiêm bao
níu quê nhà xích lại trong gang tấc - Chim ở trong
lồng chưa biết (lúc nào) về - Viết ở
nơi dưỡng bệnh gởi các bạn)
Trong một bài thơ gởi cho bạn thân
của ḿnh là Nhữ Nguyên Lập (1787 - 1867) ta thấy
họ Cao có câu:
Đa bệnh niên lai bán tí khô,
- Họa Nhữ Nguyên Lập ngũ thập
tự thọ.
(Nghĩa: Nhiều
bệnh cả năm nay, cánh tay khô chỉ c̣n phân
nửa - Họa thơ Tự thọ tuổi năm
mươi của Nhữ Nguyên Lập)
Năm họ Nhữ 50 tuổi nhằm vào 1836
(theo cách tính bấy giờ).
Họ Cao sinh năm 1809 và gặp hồi đa
bệnh ngót năm trời tức là ngay từ tuổi
27, Cao Bá Quát đă mất sức khỏe nghiêm
trọng, rất có thể là hậu quả rất
đáng xót xa của "Tóc chỏm giao du quan" mà ông
từng thổ lộ trong bài B́nh sinh ngũ thập
vận.
Về t́nh cảnh bệnh hoạn trầm kha
của ḿnh, Cao Bá Quát có một nhận định
ngộ nghĩnh:
Đa bệnh độc bàn hoàn...
- Độc dạ.
(Nghĩa: Bệnh
nhiều cứ dây dưa một ḿnh - Một ḿnh trong
đêm)
Bàn hoàn là từ khó t́m tiếng tương
đương trong Việt ngữ, ngay đến
Nguyễn Du cũng không t́m ra cách thay Nôm:
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn
thấm khăn.
(Kiều 711 - 712)
Bàn hoàn có nghĩa là vấn vương không
gỡ ra được.
Với Cao Bá Quát, bệnh hoạn có vẻ như
cứ la cà măi không chịu bỏ đi và chính ông
cũng không biết làm thế nào để gỡ
bỏ nó được.
Nó là nỗi niềm canh cánh của riêng ông. Có thể nói là ông... "sống chung" với
bệnh. Và ông đă tâm
sự với bạn:
Đa bệnh cụ thành lăn
- Di Đinh Biên tu.
(Nghĩa: Nhiều
bệnh sợ ḿnh hóa lười - Gởi quan Biên tu họ Đinh)
Đă bệnh th́ phải tĩnh dưỡng tức
ngưng hẳn mọi hoạt động. Thế nhưng ốm lai rai
cả năm trời th́ ngưng hoạt động
đến bao lâu? Rốt
cuộc bệnh nhân sẽ quen với "tĩnh"
hơn với "động" và trở thành
"lười". Cao
Bá Quát khổ tâm v́ sự tĩnh dưỡng bất
đắc dĩ ấy:
Nhất tuần sơ giản độc,
B́ bệnh độc hoài tâm.
- Khổ hàn.
(Nghĩa: Cả
tuần (tức mười ngày) thưa làm thơ,
đọc sách - Uể oải v́ bệnh, ôm thẹn
một ḿnh - Khổ v́ rét)
Tuy bệnh hoạn làm tàn tạ dung nhan nhưng
họ Cao vẫn sẵn sàng tham gia các cuộc tập
hợp thơ rượu với bạn bè và ông lư
giải rằng làm như vậy là một cách...
cải tạo dung nhan (!):
Dục bả suy nhan hoán túy nhan...
- Bệnh trung hữu nhân chiêu ẩm tịch
thượng tác.
(Nghĩa: Muốn
đem dung nhan suy sụp đổi lấy dung nhan say -
Làm ngay tại tiệc khi đang ốm có bạn
mời uống rượu)
Lối bào chữa ấy nghe rất b́nh
thường nhưng lại cũng rất... Cao Bá
Quát! Nếu ta cho vậy
vô lư th́ cũng hơi quá lời đối với
"thánh Quát".
Tiếp kỳ trước…
Điều đáng yêu ở Cao Bá Quát là ông rất
ngại bệnh hoạn của ḿnh làm bạn bè
phải bận tâm quá đáng.
Có không ít bệnh nhân vẫn thường cố
t́nh "đ̣i hỏi" chăm sóc... chất lượng
cao (!) tạo khó chịu cho người có bổn
phận, dường như họ chỉ cốt
"trả thù" đích đáng sự thiệt tḥi
xảy ra cho sức khỏe của ḿnh. Chẳng hạn Tú
Xương:
Gọi ai, ai
cũng cứ làm thinh
…………………………………
Hỏi vợ,
vợ c̣n đi chạy gạo,
Gọi con, con măi
đứng chơi đ́nh...
- Tú Xương:
Ốm và đau mắt.
C̣n Cao Bá Quát th́:
Bằng quân kư
ngữ cựu tương thức,
Thử khách
sầu trung chỉ tự trào.
- Thù hữu nhân
ủy vấn.
(Nghĩa: Nhờ
ông gởi lời cho những người bạn quen
biết cũ - Rằng lăo ấy vẫn bông lơn
với ḿnh trong cơn buồn - Đáp bạn thăm
hỏi)
Như thế, chân dung tự họa bằng
thơ của Cao Bá Quát chứa một gam màu rất
nổi bật là đa bệnh. Tuy ở đây chỉ đề cập hai
bệnh lớn (tiểu đường và tiểu
huyết) nhưng bấy nhiêu cũng đủ cho ông
chiếm kỷ lục trong làng thi nhân Hán Nôm, nhất là
những bệnh ấy đến với ông ở
tuổi chưa đến ba mươi (chính thức
là hăm bảy).
Điều may mắn cho nền văn học là
nữ thần thơ ca Muses đă ra sức níu ông
sống tiếp, không nỡ để ông phải mù và
điếc như người đồng bệnh cùng
thời với ông trong nền văn học Pháp, Jules
Verne (1825 - 1905).
Về mặt thị hiếu, Cao Bá Quát
là người rất nghiện chè xanh. Nếu Lư Bạch dùng
rượu để kích thích hồn thơ th́ Cao Bá
Quát dùng... chè xanh. Đây là sự thực có
công chứng:
Thủ nhiếp
nộn trà phanh.
- Khiển
hứng.
(Nghĩa: Tay ngắt chè non đun -
Giục cơn hứng)
Đun ngay đọt chè sau khi ngắt về chứ
không xử lư qua nhiều công đoạn để
thành trà tức là nấu chè xanh. Thức uống này được gọi là
mính chứ không phải là trà, tuy cả hai cũng cùng
lấy từ cây chè.
Với người sành điệu, để
giữ hương vị chè xanh người ta
phải tuân giữ cách đun đúng phép:
Hô nhi tương
xuất lư tân mính,
Giải nhăn
tiểu nguyệt ba ba hồng.
- Thù Phạm Ôn Phủ.
(Nghĩa: Gọi
trẻ đem chè mới ra nấu - Mắt cua nấu
trăng gợn sáng đỏ lăn tăn - Đáp
Phạm Ôn Phủ)
Theo Cao Bá Quát th́ muốn có ẩm liệu
chuẩn, đọt chè phải: a/ Hái vào buổi chiều - b/ Nấu vào ban đêm, không đậy
nắp vung. c/ Giữ cho nước sôi
nhẹ sủi bọt nhỏ như mắt cua gợn
sóng lăn tăn (chứ không đun sôi sùng sục
tỏa hết mùi chè).
Một điều cầu kỳ khác là
không nên dùng ḷ đun quá nhỏ làm chè xanh nhạt
hương vị:
Tiểu lô
tiển mính đạm ư tăng
- Bệnh trung.
(Nghĩa: Ḷ nhỏ đun chè nhạt
hơn (chè của) nhà sư - Trong lúc ốm)
Nhờ lối so sánh này của họ Cao, ta
được bổ sung vốn liếng tri thức
là tu sĩ Phật giáo ở bậc cụ túc giới
phải kiêng cả chè xanh nấu đậm!
Cũng theo Cao Bá Quát th́ món chè xanh lư tưởng
cần được nấu ở chổ lư
tưởng của nó là... trên thuyền (nơi không khí
tinh khiết hơn!):
Nguyệt chính
phàm âm chuyển,
Tiêu thanh mính
hỏa hồng.
- Thị dạ
khấu sử thừa nguyệt đồng liệt
đài mính ẩm.
(Nghĩa: Trăng
sáng nền trời, buồm cuộn lại - Đêm thanh
đun chè xanh đỏ lửa - Đêm ấy buộc thuyền hóng trăng cùng
các quan uống chè xanh.)
Đêm thanh trăng sáng, thiên nhiên bao la,
thường là dịp các đại gia Đường
Tống ở Trung Quốc thưởng cảnh
bằng rượu th́ phái đoàn sứ giả đi
Hạ Châu ngày ấy lại thưởng thức chè
xanh! Điều này làm lộ
rơ chân dung một Cao Bá Quát có những nét khác
thường về thị hiếu. Chính những chi tiết có
vẻ vụn vặt ấy lại là những nét
đậm củng cố chân dung họ Cao.
Điều đặc biệt thứ ba ở chân
dung Cao Bá Quát, đó là tŕnh độ hội họa
của nhà thơ.
Trong bài thơ Đề Đức Khê Tửu cư,
thứ Nguyễn Tuần Phủ tiến sĩ vận
(Họa vần bài Đề chốn ở ẩn ngài
Đức Khê của tiến sĩ Nguyễn Tuần
Phủ) họ Cao có câu:
Ngă dục
huề Ma Cật,
Quân khan họa
bất như.
(Nghĩa: Ta muốn dang tay cùng Ma
Cật - Ông thấy vẽ chưa bằng)
Ma Cật là biệt hiệu của Vương
Duy (699 - 759) đỗ Trạng nguyên, là thi sĩ kiêm
họa sĩ. Tiến
sĩ Nguyễn Tuần Phủ có vẻ ngầm
thừa nhận khả năng đỗ Trạng
nguyên cùng tài thơ bay bổng của Cao Bá Quát nhưng
lại... chê tài hội họa của họ Cao không
bằng nổi Vương Duy.
Với thi ca ở đời Đường;
Vương Duy chỉ sàn sàn trong tốp vài chục thi
nhân thuộc loại hai chứ không sánh ngang
được Lư Bạch, Đỗ Phủ nhưng
với hội họa th́ Vương Duy vượt
hẳn lên cao, được suy tôn là thủ lĩnh
của trường phái sơn thủy miền Nam,
như vậy tài vẽ của Vương Duy đă
lấn át tài thơ của Vương. Vậy Cao Bá Quát muốn
xếp đồng hạng mọi mặt với
Vương Ma Cật là điều hoang tưởng,
Nguyễn Tuần Phủ không nhất trí.
Tuy nhiêu, Nguyễn Tuần Phủ dùng hai
"chữ" "Bất như" chứ không nói
"bất năng".
Vậy Cao Bá Quát vẫn có tài hội họa, và
dấu vết của tài ấy ta có thể t́m
được trong bài thơ Tự đề Liễu
yến trướng tử ca (Bài ca Tự đề
bức trướng cây liễu và chim én)
Tự đề có nghĩa là lời họa
sĩ viết về tác phẩm hội họa của
ḿnh (c̣n nếu viết lên tranh của người khác
th́ gọi là phẩm đề). Bài thơ Tự đề này dài đến
24 câu thất ngôn, trong đó có hai chữ NGĂ và một
chữ NGÔ (cùng có nghĩa TA) khẳng định
đây là thơ Cao Bá Quát, ngoài ra bài thơ cũng
nhắc đến "họa sĩ điên" Đông
Châu.
Tên gọi Đông Châu ám chỉ Cao Bá Quát rất rơ v́
tỉnh Bắc Ninh quê ông thuộc thành Đông kinh, cũng
gọi là Đông đô vào thời Trần.
Trong bài Tự đề nọ có câu:
Đông Châu họa điên tri ngă tâm...
(Nghĩa: Ông Đông
Châu - người điên trong hội họa - biết
rơ ḷng ta).
Điều ngụ ư trong câu này là con người
hội họa trong ông đă thực hiện bức
trướng Liễu yến nọ đă ḥa hợp
với con người thi sĩ trong ông. Nói cách khác là "thi t́nh"
và "họa ư" đă ngẫu nhiên gặp nhau trong
giây phút xuất thần của cảm hứng, theo tâm
lư học th́ đây là cuộc ḥa hợp thơ -
họa trong một hiện tượng "nhị
trùng bản ngă" (cũng gọi là thái-nhân-cách) c̣n
theo y học th́ đây là biểu hiện của
chứng tâm-thần-phân-lập (cũng gọi là
tâm-thân-phân-liệt).
Trong lĩnh vực vơ thuật, khi vơ gia vận
công đến đỉnh cao, sẽ xảy ra t́nh
trạng rối loạn kinh mạch để
đưa đến hiện tượng "tẩu
hỏa nhập ma" th́ trong lĩnh vực văn
học nghệ thuật, khi tác giả vận dụng
trí tuệ đến đỉnh cao cũng xảy ra
loại tai nạn tương tự, gọi tắt là
Điên. Trong quá khứ,
hiện tượng Điên như thế đă xảy cho
Kim Thánh Thán (1596 - 1648), cho Hàn Mặc Tử (1912 - 1940),
cho Van Gogh (1853 - 1890), cho Rimbaud (1854 -1891), cho Gauguin (1848 -
1903) v.v.. và v.v..
Vậy con người hội họa ở Cao Bá
Quát "bất như" Vương Ma Cật theo
nhận định của Nguyễn Tuần
Phủ. Nói như thế
có nghĩa là Cao Bá Quát có trổ tài hội họa. V́ vậy chúng ta cần
đi sâu một chút vào bức tranh Liễu Yến. Ở đó có cây Phù Tang
kỳ quái, có mặt trời đỏ lừ (xích
nhật chứ không phải hồng nhật) có chim
đại bàng, có chân nhân cung Thượng thanh (hăy liên
tưởng bài thơ Thượng thanh khí của Hàn
Mặc Tử!) và đặc biệt về sự có
mặt của con thủy quái Vơng tượng! Chừng ấy chi tiết
đă làm cho cả bức tranh lẫn bài thơ Tự
đề đều mang dấu ấn của
trường phái "siêu thực" lẫn
"ấn tượng" tức là tính nghệ
thuật đă vượt đến bậc cao!
Như vậy, về lĩnh vực hội
họa, Cao Bá Quát đáng coi là một thành viên có cá tính
độc đáo (dù ở đây chỉ xét qua một
bức trướng Liễu yến). Ông hoàn toàn thoát ly phong cách cổ
điển của hội họa Trung Quốc, mà có
vẻ tự t́m lối đi độc lập cho
ḿnh. Lối đi ấy
của ông phảng phất lối đi của các
trường phái siêu thực, ấn tượng
của hội họa phương Tây.
Với những xích nhật, phù tang, đại
bàng, vơng tượng, v.v..
Ở bức trướng Liễu yến, hai
chữ bất như không c̣n nghĩa là không bằng mà
cần hiểu là không giống với. Phải hiểu như
thế mới nói lên được phong cách hội
họa của Cao Bá Quát, mặc dù tiến sĩ
Nguyễn Tuần Phủ không hề nghĩ như
thế.
Thái Trọng Lai 太重来 <photo>
Tháng 12, 2006, Việt Nam
* Chú thích:
(1) Thơ "Tự trào" của Tam nguyên Yên
Đổ
(2) Thơ "Ông phỗng sành" của Tú
Xương
(3) Phú "Thầy đồ dạy học"
của Tú Xương
Bài "Đắc bổ hàn lâm..." này có mối liên
quan hữu cơ với một nhân vật lịch
sử khác đạt danh vọng lớn hơn họ
Cao rồi cuối cùng cũng nhận cái chết
tức tửi như họ Cao. Nhân vật ấy là Ông Ích Khiêm (1829 - 1884).
Nguyên Cao Bá Quát giao du khá thân thiết với Ông
Đăng Ngạn, chú ruột đồng thời là
thầy dạy học của Ông Ích Khiêm (Cao từng có
bài thơ Đề Ông thị sơn cư, kể cuộc
đến chơi nhà ông Ngạn). Ông Ích Khiêm biết đến Cao Bá Quát
từ dạo đó.
Hai câu cuối bài thơ "Đắc bổ Hàn
lâm..." viết:
Lương tiêu
thu nguyệt hảo,
Đăi lậu
viện trung hành.
(Đêm tốt lành,
trăng thu đẹp - Làm trong Viện Đài lậu)
Mấy năm sau Ông Ích Khiêm thi đỗ (1847) vào
chờ bái mạng (lạy tạ vua) ở đúng
Viện Đăi lậu ấy (và có lẽ bài thơ nọ
cũng về lại trong trí nhớ ḿnh) thành thử
khi vua Thiệu Trị ra đề thơ Thiếu niên
đăng khoa, Ông Ích Khiêm có ngay hai câu được
sử quan đánh giá cao để đưa vào bộ
Liệt truyện. Đó là:
Đắc
lộ đa anh tuấn,
Hà tài
đáp thánh minh?
(Gặp vận hội có nhiều anh tuấn -
(Biết lấy) tài ǵ để báo đáp đấng
thánh minh?)
Phải thừa nhận rằng Ông Ích
Khiêm đă vận dụng tứ thơ của Cao Bá
Quát một cách nhuần nhuyễn, tạo nên một
trường hợp " tập cổ" thật
đắt!
|