Một buổi chiều cuối năm 1961, tôi tạt
vào một tiệm sách ở Huế, t́nh cờ giở xem
Việt Nam Khảo cổ tập san (số 2 th́ phải)
bắt gặp một thông báo lạ, nội dung mời
gọi các bậc "cao minh túc kiến" giải mă
hai bài thơ bí hiểm ở điện Long An của
cố đô Huế.
Nhan đề một bài thơ là "Vũ Trung Sơn
Thủy" (Non nước trong mưa) c̣n bài kia là
"Phước Viên Văn Hội Lương Dạ Mạn
Ngâm" (Ngâm tràn nhân đêm vui họp bạn văn ở
Phước Viên).
Cả hai bài đều được khảm xà cừ
trên nền gỗ quư, cách tŕnh bày hệt nhau (xem h́nh cuối
bài). Bên dưới mỗi nhan đề đều có
ghi chú "Dụng hồi văn thể kiêm liên hoàn,
b́nh trắc tứ vận, độc thành thất ngôn
ngũ ngôn lục thập tứ chương" (Dùng
thể hồi văn kiêm liên hoàn, bốn vần bằng
trắc, đọc thành 64 bài thất ngôn, ngũ ngôn).
Việc đầu tiên của tôi là đem nội dung
thông báo ấy của tập san ḍ hỏi các vị khoa
bảng ở Huế. Phần lớn các vị ấy
quy tụ ở Ban phiên dịch Sử liệu đặt
cạnh Viện Đại Học Huế mà tôi là hậu bối
duy nhất của Ban nọ, lúc nào rỗi th́ đến
làm việc cùng các cụ trong khuôn viên trường Đại
Học Luật Khoa. (Công việc phải làm là tóm tắt
mỗi châu bản dài hàng ngàn chữ thành xấp xỉ
trăm chữ rồi dịch ra quốc ngữ phần
tóm tắt ấy. Hơn bốn mươi năm sau có
dịp đọc lại ở thư viện tôi mới
nhận ra quy định ấy chỉ khống chế
một ḿnh tôi.
Câu hỏi tôi nêu ra là:
a/ Cụ có nhận được thư yêu cầu của
Viện Khảo Cổ không?
b/ Cụ đă thử đọc được mấy
bài rồi?
Tôi cũng mở rộng "cuộc điều
tra" của ḿnh đến các cụ không làm trong Ban
phiên dịch như Hà Ngại, Ngô Đ́nh Nhuận, Hồ Đắc
Định, vv...
Các cụ đều thừa nhận có thư yêu cầu,
c̣n về số bài đọc th́ người đọc
được nhiều nhất (8 bài) lại đúng
là người có học vị cao nhất - cụ Tiến
Sĩ Nguyễn Huy Nhu (điều thú vị là có cả
một nhà nghiên cứu người Pháp là Daudin nghe nói
đă đọc được 12 bài, nghĩa là
chưa đủ số để công bố).
Cụ Nghè Nhu bảo tôi:
- Chỉ 56 chữ mà đọc ra thành 64 bài là chuyện
quá hoang đường, chả làm ǵ có. Ngay như bài
Chức Cẩm hồi văn của Tô Huệ,
tương truyền là theo cách "triển cơ
đồ" đọc được 200 trăm
bài, nhưng chỉ thấy nói thế chứ nào đă
có ai đọc bao giờ đâu? Rơ là chuyện viển
vông...
Tôi thắc mắc:
- Thưa cụ, "quân vương vô hí ngôn" kia mà!
không đọc được như thế th́ người
ta ghi như thế để làm ǵ? Có ai bắt buộc
phải ghi chú như vậy đâu?
Cụ Nhu chậc lưỡi:
- Dào! Ở đời người ta thiếu ǵ tṛ vặt!
Xích lô đưa cụ Nhu đi cả chục phút rồi
mà tôi vẫn c̣n đứng chôn chân ở mái hiên Văn
Khoa. Lẽ nào một vấn đề "nóng"
đến thế, gợi sự quan tâm rộng cả
nước như vậy mà cụ phủ nhận nghe
thật nhẹ tênh! H́nh như đấy cũng là một
cách biểu hiện tinh thần "Lăo giả an
chí" chăng? Tôi chẳng thể nhất trí với
cụ dễ dàng được. Nhất định
phải có đầu mối của cách đọc lẩn
quất đâu đó. Người sáng tác đă cố
"g̣" bài thơ như thế mới là việc
khó, lẽ nào phăng ra cách đọc lại khó
hơn được sao?
Tôi quyết định vào cuộc.
Ngồi một ḿnh trên căn gác vắng khi đêm
đă quá khuya, chung quanh im ắng đến cả tiếng
rao quà rong cũng không c̣n vang vọng, thật là hoàn cảnh
lư tưởng cho việc tập trung trí tuệ. Tôi ngồi
như tượng gỗ, chong mắt vào cái ṿng tṛn ma
quái của bài thơ Vũ Trung Sơn Thủy. Tôi mang
máng cảm thấy như đă gần sờ
được ch́a khóa giải mă cách đọc. Ḍ dẫm
một lúc lâu, tôi đă thử gom đủ được
64 bài. "Ơrêka!" Người tôi như dại hẳn
đi một lúc lâu rồi mới từ từ tỉnh
dần. Xem đồng hồ th́ đă hơn hai giờ
sáng. Tính ra, tôi đă ngồi bất động gần
bốn tiếng đồng hồ.
Tôi vứt bút, nhoái người ra bộ ván, lăn qua lăn
lại quẫy đạp rầm rầm, hết nằm
ngữa lại nằm sấp, người cứ
như tức thở, rên hừ hự, vùng vẫy quằn
quại dở khỏe dở ốm. Tôi chỉ biết
nỗi mừng tràn trề chất lượng của
ḿnh, chẳng hề quan tâm đến thời gian lẫn
không gian.
Nghe trên gác có tiếng động không b́nh thường,
ông chủ nhà - một chức sắc lớn của cảnh
sát địa phương - bật dậy lao lên gác,
lay hoay một lát đă khóa chặt cả chân tay tôi. Măi
đến lúc ấy tôi mới ư thức được
sự tai hại của cơn vui mừng quá lố của
ḿnh! Té ra tôi đă phá giấc ngủ đúng vào cái lúc
say sưa nhất của cả xóm hẻm ấy.
Đèn bật lên sáng choang. Phía đầu cầu thang,
người cùng hẻm đứng lố nhố, có cả
hai vợ chồng ông Phó Giám Đốc Nha Cảnh Sát miền
Trung. Quả thật tôi đă làm một vố tày trời,
có lẽ là lần đầu người ta mới thấy
xảy ra một vụ như vậy trong xóm nhỏ nầy.
Phải hóa giải thế nào đây? Nổi cơn
khùng bất tử thế nầy, không khéo tôi làm bay tong
chén cơm gia sư của ḿnh mất thôi!
Làm thế nào bây giờ? Mà sao tôi lại đổ
đốn theo cái kiểu quái quỷ ấy được
nhỉ? Lâu nay tôi vốn có cái mẽ điềm đạm
đáng tin cậy đầy vẻ gia sư kia mà! Tôi
đâm ra oán cái cơn nổi hứng bộc phát ấy.
Rồi tôi oán luôn cả đầu óc ḿnh bỗng
dưng như tê liệt, rối rắm đến
độ không kiểm soát nổi tứ chi. Th́ ra tôi
đă vét óc cho vụ t́m cách đọc nọ, giờ
th́ toàn bộ tế bào thần kinh đă mất hết
công dụng, đáng phải... vào pḥng cấp cứu tất
tật!
Cái kiểu mặt mày thuỗn ra v́ đầu óc lao
động quá sức của tôi, té ra lại tạo
được ấn tượng tốt. Người
ta có vẻ nghi ngờ tôi bị ma ám. Đúng là tôi đă có
"phao" rồi!
Tôi nh́n sững từng gương mặt quen thuộc
trong xóm như phải cố gắng lắm để
nhận ra họ thật chật vật. Lối diễn
xuất vai ngớ ngẩn này ngẫu nhiên giúp tôi đạt
một thành tựu phải coi là rất khả quan:
trong đám người hiếu kỳ lố nhố có
một cô công nhân của xưởng mè xửng trên phố
nhan sắc mộc mạc trông rất bắt mắt,
thỉnh thoảng tôi vẫn gặp trong con hẻm tấp
nập nầy, nhưng đôi bên chỉ đủ th́
giờ nh́n lướt nhau chẳng đâu vào đâu th́
nhờ vụ nầy tôi nh́n nàng thật tham lam đến
no mắt và cô ta cũng vậy. (Ai ngờ, việc tận
dụng cơ hội của tôi lại phản tác dụng
thê thảm! Sau vụ đó, cứ mỗi lần chạm
mặt tôi, cô ta lại cụp mắt bước nhanh,
nơm nớp sợ "con ma" nắp trong tôi đột
nhiên nẩy sinh cử chỉ không lường
được!). Trong dịp này, tôi đạt luôn một
kết quả "khám phá thứ cấp", ấy là
tôi nghiệm ra rằng, sự ṭ ṃ, hiếu kỳ rơ
ràng là có tỷ lệ thuận với nhan sắc, tức
con gái càng đẹp th́ càng ṭ ṃ nhiều hơn!
Thế rồi tôi bắt đầu kể với ông
chủ nhà:
- Em đang mơ màng th́ thấy một đàn đom
đóm bay nhanh như xông vào pḥng. Em nhỏm dậy
định coi chúng bay đi đâu th́ cả chục
cánh tay đè mạnh lên người. Em vùng vẫy một
hồi mới nhận ra toán người ấy mặc
toàn đồ đỏ, hằm hằm không nói năng
ǵ cả, người nào người nấy mặt trắng
như bột, râu ria rậm ŕ. (Khi kể chi tiết ấy,
tôi dựa theo mấy bức tượng trấn ở
cổng chùa Linh Mụ tức là cũng có dựa tí chút
sự thật chứ không phải bịa hẳn cả
100%!)
Người nào người nấy lần lượt
tản ra lăng xăng lo phần việc ḿnh. Cô tớ
gái được lệnh pha cho tôi một tách trà nóng
để uống cho tỉnh. Bà cụ mẹ ông chủ
nhà thắp hương tối đa cho các bàn thờ rồi
tụng một hồi kinh. Ngôi chùa bên cạnh nhà cũng
vang lên tiếng chuông mơ, nghe rền hơn, tư thế
hơn.
Tiếp (1)
Bấy
giờ đă gần ba giờ sáng. Kinh nghiệm dân gian đă đúc kết
"nhất chạng vạng, nh́ rạng đông"
đấy là những giờ khai mạc và bế mạc
của... người cơi âm. Chuyện "chữa
cháy" của tôi thế là có sức thuyết phục
đáng kể. Đom đóm bay vào nhà th́ đâu phải là
chuyện chưa ai thấy? C̣n những người mặc
áo đỏ th́ chưa kể tỉ mỉ, chi li
người ta đă vội vàng hiểu ngay đấy
là những oan hồn xiêu giạt từ hồi thất
thủ kinh thành năm 1885, người dân Huế có ai
mà chẳng từng nghe nhắc đến cả mấy
lần?
Các bà các cô th́ thảo với nhau về sự lộng
hành thái quá của các oan hồn nọ, dám gây sự... với
dân lành (như tôi) ngay bên nách nhà chùa, chẳng kiêng nể
đến cả Phật tổ Như Lai!
Đám đông giải tán từ lâu nhưng tôi vẫn thao
thức chưa t́m được giấc nào. Vui mừng
té ra cũng có mặt trái chẳng hay ho cho lắm, thậm
chí c̣n có thể xảy ra chuyện mất mạng
như chơi. Tương truyền ông tướng ba
búa (vũ khí ông ta rất nặng, nện đủ ba
búa mà tướng địch đỡ ngon lành là ông biết
gặp phải thứ dữ, quay ngựa "thượng
sách" ngay!) là Tŕnh Giảo Kim ngày xưa, khi nghe tin
cháu nội ḿnh cũng đă có cháu nội, ông mừng
quá, cười dài một tràng rồi ngỏm luôn. Thật
hú vía cho tôi! Lúc năy tôi tuy mừng quá đỗi nhưng
chẳng hề nhe răng cười tiếng nào nên
chưa hề hấn ǵ!
Có tiếng ông chủ nhà vọng lên dặn tôi đừng
tắt đèn. Tôi chỉ mong được thế,
bèn lồm cồm ngồi lại bàn chép một hơi
64 bài xong, phiên âm rồi gởi Viện Khảo Cổ.
Năm ấy, ông Trương Bửu Lâm, Viện
Trưởng Viện Khảo Cổ bận công du,
người gởi thư cảm ơn tôi là ông Quyền
Viện Trưởng Nghiêm Thẩm. Cả đời
tôi chỉ có mỗi một lần ấy là nhận
được lá thư quư hiếm: giấy lụa sờ
lên cảm thấy như mát lạnh cả tay, nội
dung được gơ trực tiếp bằng máy chữ
Triump cực kỳ sắc sảo, đă thế c̣n
đóng dấu bằng son tàu (xin nhấn mạnh chi tiết
này!) Với tôi, được thấy một bức
thư trang trọng như vậy của người
khác cũng đă là điều hạnh phúc trên đời,
huống chi đấy là bức thư trực tiếp
gởi tôi với lời lẽ nồng nhiệt ca ngợi..
"tinh thần phụng sự văn hóa" (nguyên
văn) của tôi nữa!
Cái vui sướng lần này sờ được, ngắm
được, thế mà tôi chẳng động tay
động chân ǵ được, cứ nghe căng ứ
cả người, ăn ngủ cũng khó khăn hẳn
đi. Nếu không có cách phát tiết theo kiểu xả
van an toàn cho cái vui sùng sục này, ḷng tôi dám xảy ra tai
nạn nổ tung như nồi súp de bị nén quá lâu!
Kiểu "xả van an toàn" xem ra cũng dễ
làm: kể kết quả nọ cho các bạn bè. Tuy
nhiên, tôi chỉ "giải" cách đọc của
ḿnh c̣n chuyện thư cảm ơn th́ tôi giấu biệt,
vừa sợ gây ầm ỹ, ghen tị, vừa sợ
các bạn tranh nhau xem, gây nhàu nát giảm giá trị
"vật báu" đi. Không dè đấy lại
chính là quyết định sai lầm lớn nhất
đời tôi!
Ngay vài ngày sau, trong giờ Hán Văn, cụ Nguyễn
Huy Nhu vừa bước lên bục giảng đă quay
lại toàn thể sinh viên, hỏi:
- Anh Phạm... hôm nay có đi học không nhỉ?
Không thấy ai trả lời, cụ hiểu là
"đương sự" vắng mặt nên tiếp
thêm:
- Nghe nói anh ta đă đọc ra được các bài
thơ bí hiểm...
Tôi cảm thấy ḿnh lạnh toát đến tận
chân tóc! Chỉ mới vài ba ngày nay thôi mà tin đồn
đă đến tai cụ rồi ư? Quả là siêu tốc!
Cụ bảo "nghe nói" tức là anh ta chưa có
dịp gặp cụ trực tiếp. Vậy có lẽ
anh ta "cầu chứng" một cách không trong sáng
vào dịp cụ vắng nhà, và tin đồn đă
ph́nh to hơn. Chết thật! Thế là từ địa
vị kẻ khám phá, bỗng nhiên tôi biến thành kẻ
"cóp pi" anh ta mất rồi! Sao tôi lại nhẹ
dạ đến thế được nhỉ? C̣n anh
ta sao dám mạnh mồm đến thế chứ? Tôi
khoe với cả ba người cùng lúc, anh ta phao tin
như vậy mà không ngượng với hai người
cùng nghe hôm ấy được sao? Có thể anh không
lường việc cụ Nhu công khai hỏi toạc
giữa lớp như thế nầy chăng?
Thật ra, vào lúc thường tôi vẫn ít nhiều
đề pḥng anh ta v́ đôi lúc anh ta để lộ
cá tính chẳng mấy đàng hoàng, thế nhưng cái
hôm... giải tỏa sức nén của niềm vui, tôi lại
lú lẩn đến quên khuấy sự cảnh giác cần
thiết ấy! Tệ thật! Th́ ra cái vui mừng là
thứ bà con gần của cái hớ hênh. Lỗi hoàn
toàn do tôi không lường đúng ḷng người! Vả
lại xét về lư, Viện Khảo Cổ kêu gọi
"các bậc cao minh túc kiến" là kêu gọi chung
cả nước, ai cũng có quyền khám phá kia mà, có
kết quả trước hay sau đâu có đặt
thành vấn đề?
Cứ tưởng anh ta "chơi" tôi mạnh tay
như vậy, chắc là anh đă hy sinh bạn cố
cựu, té ra những ngày sau đó anh vẫn duy tŕ
tươi tốt nguyên vẹn mối giao t́nh như chẳng
hề có chuyện ǵ xảy ra. Tôi vẫn đánh giá cao
tính hồn nhiên dễ dăi ấy ở anh.
Khoảng nửa tháng sau bức thư cảm ơn
đặc biệt nọ, Viện Khảo Cổ lại
gởi tiếp cho tôi bức thư thứ hai, giục
gởi nốt cách đọc bài Phước Viên
Văn Hội Lương Dạ Mạn Ngâm.
Tôi rất ngạc nhiên về đề nghị này. Bởi
lẽ ch́a khóa mở cách đọc Vũ Trung Sơn Thủy
cũng dùng mở được Phước Viên
Văn Hội, đâu cần phải gây nhàm chán làm ǵ!
Thế nhưng đề nghị này hóa ra lại hấp
dẫn.
Số là bức thư nọ có tiết lộ rằng
Hội Đồng Viện ấy đă thống nhất ư
kiến nâng mức thù lao cho tôi mỗi trang 500 đồng
chứ không theo mức chung 150 đồng như với
mọi công tŕnh nghiên cứu khác. Như vậy, đề
nghị này nhân đôi cho khoản thu nhập sắp tới
của tôi, tức tôi kiếm được chừng
20 ngàn đồng, thật là "thơm tho" quá sức
mong muốn! (thời điểm ấy giá vàng h́nh
như 8 ngàn đồng một lạng).
Viện Khảo Cổ cũng cho biết rằng bài vở
cho tập san 1962 đă duyệt, v́ vậy bài của
tôi phải chờ 1963. Sự sung sướng của
tôi thế là đành phải hoăn lại một năm.
Người xưa có câu "Đêm dài lắm mộng",
thế th́ quá nhiều đêm đến vậy tôi sẽ
phải chịu bao nhiêu cơn mộng của thiên hạ
đây?
Quả nhiên tôi đă gặp phải ác mộng. Nói cách
khác, tôi đă nếm mùi bí hiểm của ḷng dạ
người đời mà trước đó dẫu tôi
có suy nghĩ nát óc cũng không tài nào lường nổi.
Viện Khảo Cổ lại gởi tôi lá thư thứ
ba. Đến lúc ấy, tôi cảm thấy ḿnh như là
"người trong nhà" của Viện, sẵn
sàng "đấu mắt, đấu răng" nếu
có ai vô phúc nói xấu cái Viện "thân thiết" ấy
của tôi. Bức thư thứ ba bày tỏ ḷng ái ngại
cho sự chờ đợi quá lâu của tôi nên gợi
ư rằng "Viện chúng tôi không có chủ
trương thủ đắc bản quyền, v́ vậy
ông có quyền đăng thêm ở báo chí".
Tôi cảm thấy có cái ǵ đó hơi lạ. Xưa
nay bất cứ cơ quan đăng tải nào cũng
đều đ̣i hỏi độc quyền hoặc
đặc quyền ưu tiên sử dụng bài vở
cộng tác, làm ǵ có chuyện cư xử
"thoáng" đến thế được? Tuy
nhiên, tôi vẫn chẳng nghi ngờ ǵ... Viện nhà (!).
Tôi đem chuyện ấy kể với giáo sư Phan
Văn Dật để xin một lời khuyên. Thầy
Dật bảo:
- Anh mới bắt đầu cầm bút. Gởi một
bài cho hai nơi là bất liêm đó! Ư tôi như rứa,
c̣n quyết định là quyền của anh.
Tôi nghe lời thầy Dật, không làm theo cách gợi ư
đó của Viện Khảo Cổ. Tôi c̣n viết
thư phúc đáp rằng ḿnh sẵn sàng chờ đến
năm 1963 chứ không cần gởi đăng nơi
khác. Nhiều năm sau tôi mới nhận ra thủ
đoạn sâu sắc của những người tôi
dành cho nhiều kính mến, ấy là nếu tôi bùi tai
làm theo lời gợi ư của họ th́ Viện Khảo
Cổ chỉ c̣n tốn công xin trích đăng, ghi rơ xuất
xứ là phủi sạch lời hứa với tôi. Sự
trung thành của tôi đă ngẫu nhiên làm vỡ âm
mưu ấy và họ xoay cách khác. Điều bí hiểm ấy
của họ bộc lộ rất nhanh.
Xuân 1963, tôi về quê ăn Tết, tâm trạng đầy
ắp hào hứng, mong cho thời gian tăng tốc mạnh
hơn.
Về đến nhà, tôi bắt gặp một anh
"thầy bói sáng" ở làng bên, tá túc dài hạn ở
nhà tôi cho tiện đón xe hàng ngày đi Đà Nẵng hành
nghề. Anh ta tên Cung, con
ông thầy bói mù khá đắt khách một thời. Thuở
bé anh dắt bố đi hành nghề quanh miền. Tiếng
Việt gọi việc anh làm là "thằng mỗng". Sân khấu tuồng chèo thỉnh
thoảng thấy xuất hiện vai hề dưới
dạng ấy. Đă là hề th́ khó được xă hội
tôn kính. Thế mà nay anh đă là "thầy" hẳn
hoi, áo the khăn lượt trông cũng ra vẻ lắm.
Quen biết bố con anh từ lâu nên tôi giở giọng
nhờn mặt hơi hỗn xược:
- Anh mà thầy bà cái quái ǵ? Mượn chút danh của
bác để đi phỉnh thiên hạ phải không? Có
thấy anh học nghề tổ bao giờ đâu?
Anh cười hiền lành:
- Đừng giỡn chớ! Chú cứ bói thử đi rồi
coi!
Tiếp (2)
Cả ngày ngồi gốc cây vệ
đường nên nhà tôi là trạm thư giăn quan
trọng cho anh ta. Hễ về đến nơi, tắm
táp rửa ráy xong là anh lăn ra ngủ. Hôm ấy chỉ
v́ có tôi về nên anh c̣n nấn ná tṛ chuyện mấy
câu. Kiểu nói "Đừng giỡn chớ!" của
anh dành cho tôi nghe y hệt thầy Cúc từ giọng nói
đến ngữ điệu, độ nhấn. Nó di
truyền thật rơ. Do đó tôi bắt đầu mến
trọng anh qua h́nh ảnh thầy Cúc. Tuy nhiên, giọng
thách thức đầy tự tin của anh đă…
đánh giá thấp tôi quá!
- Ừ th́ bói! Nhưng xin phép cho kiểm tra đồ
nghề cái đă!
Vừa nói tôi vừa lôi chiếc tráp anh đang kê đầu
dùng làm gối. Tôi cầm cuốn sách dạy bói bài
quăn queo bẩn thỉu của anh, tiếp tục
cái giọng dè bỉu:
- Sách tởm thế này mà mấy mụ hàng cá cũng cắn
răng chịu chung tiền lừa phỉnh cho anh à? Liệu
có vi trùng lậu không đây?
- Bách khối!
Dân vùng tôi vốn không quen đúng tiếng "vô khối"
để chỉ số nhiều cực độ. Anh
cười khanh khách giật lại cuốn sách bói rồi
nghiêm giọng:
- Đă bói th́ phải thành tâm! Nghiêm chỉnh nghe! Bói ǵ
đây? Công danh hay tài lợi?
Giọng anh ôn tồn, cuốn hút. Tôi cụt hứng,
quên béng chuyện đùa cợt. Tôi hạ giọng hỏi
nghiêm túc:
- Anh mạnh môn nào đây?
- Môn nào cũng mạnh. Chú coi đồ nghề rồi
mà!
Tôi hất cuốn sách dạy bói bài vào ḷng anh. Anh cười:
- Khỏi! Thuộc nhập tâm hết rồi! Xóc bài
đi!
Tôi làm theo mọi chỉ dẫn của anh. Anh
đăm chiêu một lúc lâu rồi hỏi:
- Tui nghe nói chú học như trâu ḷ đường hả?
Thi mấy cái?
Ở các ḷ nấu đường thủ công, người
ta dùng trâu để vận hành trục ép mía. Chỉ
khi nào trâu bước không nổi nữa mới
được tháo ách cho nghỉ. Chuyện tiêu hóa cùng
bài tiết của trâu đều diễn ra trong lúc
đang làm việc. Tôi học quần quật, c̣n dạy
kèm hai chỗ, dạy tư hai trường, ví với
trâu ép mía nghe khá chuẩn, thế nhưng đem trâu ví với
sinh viên nghe hơi... nặng lời! Tôi cười:
- Thi ba cái! Chắc "trâu" hỏng tuốt phải
không?
Anh chăm chú bấm đốt tay thoăn thoát rồi
bảo:
- Tui nghe người ta nói chú học giỏi lắm
nhưng chắc là tui làm chú bất ngờ đây: trong
ba cái đó, một cái chú đậu đầu, một
cái chú đậu trầy trật, một cái chú hỏng
v́ bạn bè.
Thật là kỳ quặc! Mấy quân bài làm sao thông báo
cho anh tỉ mỉ như vậy được? Cuốn
sách dạy bói ấy tôi đâu có lạ ǵ? Tôi cũng có
một cuốn nhưng gần như c̣n mới nguyên
v́ chỉ xem qua một lần cho biết rồi kết
luận là mơ hồ không đáng tin. Thấy tôi có vẻ
như "đánh mất ḷng thành" anh cười
cười:
- Chú nghi ngờ phải không? Chú không biết là năm
nay chú gặp nhằm vận rất xấu à? Huỳnh
tuyền táng tận đó! V́ vậy chú có một món lớn
rất lớn, giờ đây cũng đă bị
người ta đoạt hẳn rồi!
Tuy "thầy" phán như đinh đóng cột,
tôi có hơi ngán, lại c̣n cái vận hạn "chết
toi" kia ám ảnh, quả thật tôi chợn,
nhưng vẫn gân cổ phản bác:
- Anh đoán như vậy chưa chắc ăn lắm
đâu!
Thứ nhất, ở Đại Học, các thi sinh ngồi
xen nhau (một kẻ thi Toán có thể ngồi giữa,
một bên là kẻ thi Hóa, một bên là kẻ thi Lư)
không ai phá ai nổi đâu, vậy chẳng gặp lụy
v́ bạn bè được.
Thứ hai, tôi đi học chứ không đi buôn bán làm
ăn ǵ, chẳng thể có chuyện bị người
ta đoạt lợi được!
Anh có vẻ đuối lư, cố chống chế:
- Quả ứng vậy th́ tôi đoán vậy. Đúng hay sai
c̣n chờ nghiệm đă! C̣n cả 12 tháng nữa kia
mà! Nói càn là không được đâu. Việc thi cử
là chuyện của chú, tui biết ǵ mà nói?
Giọng anh thoảng mùi bực dọc. C̣n tôi, tôi chẳng
tin mảy may.
Tôi trở lại Huế. Đang c̣n đứng ở ngoài
cửa pḥng, lách cách mở ổ khóa th́ một gă bạn
trọ ở nhà bên cạnh nghe tiếng chạy sang,
chào nhau xong anh ta hấp tấp hỏi ngay, có vẻ
như chờ tôi đă quá lâu:
- Xừ L, có biết giáo sư DĐK không hả?
- Không. Sao? Có chuyện ǵ vậy?
- Thằng chả giỏi thiệt! Bài thơ chỉ mấy
chục chữ lắt léo mà "nó" đọc ra
hơn sáu chục bài!
Tôi vừa xách lại túi hành lư, đặt một chân
vào pḥng th́ gă làm tôi phải buông rơi túi xách, giữ
nguyên thế đứng "thái cực quyền dưỡng
sinh", tức là không c̣n sức để kéo nốt
chân kia vào pḥng. Tôi vỗ mạnh vào đùi ḿnh:
- Bỏ mẹ! Của ḿnh rồi! Bằng không th́ sao lại
có chuyện 120 năm nay không ai đọc bỗng nhiên
mới có vài tháng lại có đến hai người
đọc? Bấy giờ tôi chỉ thắc mắc
đơn giản như thế chứ chưa hề
biết DĐK là người đặc trách việc biên tập
và ấn hành tập san Khảo Cổ.
Người bất chợt làm cho tôi sợ đến
tái người lúc ấy là anh thầy bói Cung. Tại
sao tôi chưa kịp bước vào pḥng ḿnh th́ gă trọ
pḥng bên cạnh đă chạy sang hỏi ngay tức th́
chuyện DĐK? Cứ y như là thầy bói Cung đă dàn
quân phục kích để đánh úp cái thói ương
bướng xỏ xiên của tôi. Điều tôi "sợ"
thêm là chỉ c̣n hơn hai tháng nữa tôi c̣n phải chịu
thêm sự ứng nghiệm về thi cử của mấy
quân bài lắm chuyện kia.
Ba "cái" mà tôi khai với thầy bói Cung là thi lên
năm thứ hai Sư Phạm, thi chứng chỉ Hán
Văn và chứng chỉ Lịch Sử Triết Học
ở Văn Khoa. Nhắc việc thi cử ở
đây có vẻ hơi lạc đề nhưng nó góp
phần củng cố sự thật cho chuyện bị
đoạt lợi vừa nói ở trên.
Ở Đại Học Huế bấy giờ có lệ là
nếu một môn thi nào bị điểm loại th́
dù các môn khác nhiều điểm để bù ổn thỏa
cho môn loại, vẫn cứ bị đánh hỏng. Lệ
ấy nhằm buộc thí sinh phải coi trọng mọi
môn như nhau, thế nhưng cũng có giáo sư lạm
dụng lệ ấy để "trị" những
sinh viên mà họ có ác cảm, tuy chuyện như vậy
hiếm xảy ra nhưng thực tế đă xảy
ra cho riêng tôi hai lần và một bạn khác cũng dân
Quảng Nam bị đến bốn lần như thế
với một giáo sư người Ư duy nhất.
Sau kỳ thi ở Sư Phạm, một giáo sư nọ
tiết lộ ngay trong giờ học của lớp
chúng tôi:
- Năm nay có vài trường hợp phải ở lại
lớp thật bất ngờ. Khi nói câu ấy, ông nh́n
tôi một cách khó hiểu và tôi lờ mờ đoán ra.
Tôi nghĩ thầm:
- Có chuyện rồi ư? Nếu ông ta quyết ư
"búa" ḿnh th́ dở ẹc! Hành động kém
trong sáng đến thế th́ thật đáng chê cười
quá! Tôi có làm ǵ đáng trách đâu? Lẽ nào ông ta dùng tôi
làm băi thử vũ khí quyền lực?
Sau đó hai hôm, vào một buổi chiều, tôi đến
trường đang lay hoay khóa xe th́ người bạn
cùng lớp chạy như bay từ lầu hai xuống,
vẫy tay rối rít. Tôi ngạc nhiên đứng lại
chờ. Anh ta đến gần bảo nhỏ:
- Chuồn ngay! Chuyện cậu dài lắm! Phải
ăn bánh bèo th́ mới kể hết được.
Tôi hiểu ư, đèo anh ta bon về hướng Vĩ Dạ.
Anh kể:
- Các ông ấy căi nhau chí chóe về cậu, không sao ngă ngũ
được! Chỉ một ḿnh ông X... (tên được
mă hóa) cho cậu điểm loại, c̣n các ông kia th́ gân
cổ phản bác. Họ căi nhau như đám mổ ḅ.
Họp buổi sáng mà gần hai giờ chiều rồi
vẫn chưa xong th́ cậu đủ biết! Ḿnh chú
ư mấy phát biểu khá độc. Ông M. bảo:
- Đồng ư giám khảo có quyền dùng điểm loại
để phủ nhận bài làm của một sinh viên
nào đó. Nhưng quyền ấy là con dao hai lưỡi,
phải cẩn thận! L. vừa mới đỗ
đầu thi tuyển, giờ ở lại lớp, nhất
định nó sẽ tự ái, bỏ học. Hội
đồng thi tuyển trước đây sẽ
ăn nói ra sao? Chấm ẩu ư? Nếu nó khiếu
nại đ̣i "chấm hội đồng" cái
môn vừa bị loại, ta từ khước
được không? Chuyện ǵ sẽ xảy ra
đây? Dư luận và cả bạn bè nó sẽ nghĩ
ǵ về nhà trường?
Cụ H. phát biểu mới thật là quái ác:
- Tui không hiểu tạo hóa đùa cợt cái kiểu
chi mà để cho anh dạy anh L. Theo tui, để anh
L. dạy anh mới đúng!
Tôi biết ngay là cái ư kiến bông lông của cụ H.
chính là quả bom tấn "san bằng" cái điểm
loại nọ.
Cụ là con trai một vị Hoàng giáp có thời làm Đốc
Học Quảng Nam.
Bản thân cụ cũng từng giữ một chức
quan nhỏ ở đấy. Ông Tổng thư kư Viện
Đại Học Huế lại là con rể cụ. Tóm lại,
ư kiến cụ khó thể coi là "lời nói gió
bay" được. Nhất định cái kỳ
thi trầy trật mà anh thầy bói Cung tiên đoán
đă ứng nghiệm ở đây rồi! Nhưng sao
lại to chuyện đến thế được
nhỉ?
Tiếp (3)
Người bạn cùng lớp dừng
kể, tợp một ngụm bia rồi nh́n sững
mặt tôi, có lẽ để quan sát tôi "đă"
đến đâu về lời phát biểu đáng giá
bạc tỷ ấy của cụ H.
Tôi hất hàm:
- Rồi sao nữa?
- Sao với trăng ǵ! Nghe tới đó, ḿnh sướng
quá, tức một điều là không có thêm vài đứa
cùng nghe! Ḿnh phóng một hơi xuống lầu, đụng
đầu cậu đó thôi! Không tiếc tiền bánh
bèo đó chớ?
Mọi sự đúng như tôi dự đoán. Ông X. tự
chấm lại. Chỉ cần nhích lên một điểm
là ông thoát được búa ŕu dư luận mà tôi cũng
khỏi rơi vào số phận lưu ban.
Mấy ngày sau, tôi thi chứng chỉ Hán Văn. Lúc vào
thi vấn đáp, có ông giám khảo nọ chơi một
thủ đoạn lạ đời là chỉ cho phép
vào từng người một, kẻ trước
đi ra xong th́ kẻ sau mới được phép vào
pḥng thi. Thí sinh nào cũng thừa biết ư đồ của
ông.
Lúc tôi đang trả lời câu hỏi th́ không khí dưới
đường khá huyên náo. Một đoàn biểu t́nh
hô vang "đả đảo" (v́ đêm trước
trong buổi phát thanh chương tŕnh lễ Phật
đản, có lựu đạn nổ ở đài
Phát thanh làm chết năm người).
Ông giám khảo nọ bỏ ra phía cửa sổ đứng
ngắm xuống đường. Tôi không biết trả
lời cho ai nên cũng ra đứng ở một cửa
sổ khác. Thế là phần ai nấy ngắm.
Các thí sinh c̣n lại mỏi mắt chờ măi bên ngoài
không thấy tôi ra nên đoán già đoán non đủ kiểu.
Đa số cho là tôi bị ông này "rượt" tới
cùng nhưng tôi th́ lại nhanh như sóc. Hỏi lâu
đến thế th́ có nhận điểm loại cũng
chả đáng ngạc nhiên.
Chuyện điểm loại là do ông ta tự nói ra về
sau. Kết quả vừa yết chiều hôm trước
th́ đầu giờ dạy hôm sau vào lớp chúng tôi,
ông nhận định:
- Cái chứng chỉ Hán Văn thật quá sức dễ
đậu. Dễ đến nỗi có đánh hỏng
cũng không làm sao hỏng được! Các cụ cho
điểm thật vô tội vạ!
Các bạn trong lớp đổ dồn mắt vào tôi
như ngầm bảo: "Hiểu rồi chứ! Biết
thân chưa?" Tôi thừa hiểu, có điều là
tôi rất tức tối cho cái hạn Huỳnh tuyền!
Nó chỉ là một chu kỳ may rủi mà lại có sức
thúc đẩy đồng bộ đến thế
được ư? Và tôi cũng rất tức tối
cho ông thầy nọ. Ông này nói hớ c̣n tệ hơn
ông X. nhiều. Ông đi quá sâu vào nội dung làm lộ
bét cái ư đồ kém trong sáng của ông ta. Học với
mấy ông thầy kém phẩm chất quân tử đến
thế th́ c̣n đâu giá trị của sự học,
c̣n đâu phẩm chất của con người? Ông
không muốn tôi đỗ, thành thử việc đỗ
đầu của tôi đă làm hại tiếp cho tôi ba
lần thi cử khác nữa. Thầy bói Cung lại phán
đúng!
Nguyên cái hôm đứng trên lầu nh́n xuống đám
biểu t́nh, lại nh́n hai nhân vật đứng đầu
Phật Giáo và đứng đầu chính quyền miền
Trung phơi đầu trên chiếc xe mui trần chạy
rề rề để họ trực tiếp trấn
an dân chúng, tiếp đó lại xảy ra cuộc tự
thiêu trước chùa Thiên Mụ, khiến tôi cảm thấy
việc thi cử của ḿnh trong t́nh h́nh nóng bỏng ấy
quả thật không hợp cảnh. Tiếp đó tôi
được Văn pḥng trường Văn Khoa gọi
đến kư vào bản kiến nghị xin Chính Phủ
yên ḷng t́m biện pháp ổn định t́nh thế
đất nước và cam kết sẽ học hành
nghiêm túc. Tôi khéo léo khước từ, lấy cớ là
một ḿnh tôi dẫu kư cả ngh́n chữ cũng chẳng
ăn thua, tốt nhất là họp toàn bộ sinh
viên(!) đồng kư một lần mới có giá trị.
Thế là tôi thoát. Hai hôm sau, vào thi chứng chỉ Lịch
Sử Triết, tôi kư tên vào danh sách dự thi rồi nộp
giấy trắng ra về. Tôi bí thực sự v́ có ôn tập
ǵ đâu!
Hàng loạt sự kiện xảy ra dồn dập làm
tôi chán ngán năo nề. Cái kiểu đua nhau tỏ thái
độ chính trị như thế dù chủ động
hay bị động cũng đă làm cho văn hóa bị
xúc phạm nặng nề. Ai c̣n ḷng nào mà thi với cử?
Tuy tôi không tham gia biểu t́nh nhưng bạn bè biểu
t́nh làm tôi xấu hổ lơ là ôn tập và hậu quả
tất yếu là bỏ thi. Té ra thầy bói Cung cũng
chẳng đoán sai! Nói cách khác, quẻ bói bài của tôi
đă ứng nghiệm toàn diện, tôi không thoát khỏi
những điều được dự báo từ
trước đấy ngót ba tháng!
Nói lan man như vậy để xác định tôi bị
đoạt mối lợi là chuyện có thật dẫn
đầu cho cả chuỗi sự thật! Kẻ
đoạt lợi đă lộ diện. Điều ngộ
nghĩnh là kẻ ấy xưng giáo sư, lại lấy
danh nghĩa Viện Khảo Cổ đ̣i tôi gởi
đủ bài giải, có nghĩa là khi tôi chưa gởi
th́ ông ta, kẻ phụ trách tập san Khảo Cổ vẫn...
chưa nghiên cứu! Càng ngộ nghĩnh hơn nữa
là công tŕnh của giáo sư DĐK lại đăng trên số
Xuân của nội san Bạn Dân là loại báo phát không
cho các ban ngành Cảnh Sát! (Khi ngành Công An c̣n chưa sáp nhập
với Cảnh Sát, th́ ngành ấy có nêu câu khẩu hiệu
mị dân khá màu mè: "Công An là bạn của dân!")
Vậy mà một công tŕnh nghiên cứu của vị cán
bộ lănh đạo Viện Khảo Cổ lại
không đăng ở kỷ yếu "trong nhà" mà
lại đem đăng ở một nội san của
cái ngành chẳng mảy may liên quan đến khảo cổ.
Rơ là cố ư đánh lạc hướng cho những ai
thắc mắc về bài vở đăng ở đặc
san Bạn Dân! Phần tôi, đang ở tuổi quân dịch,
nhác thấy cảnh sát là khấn thầm cho họ
đừng thấy ḿnh, dẫu có đổ "mật
gấu" đầy tới mũi, tôi cũng chả
dám ho he thắc mắc! (Thật ra th́ ở thời
điểm ấy, tôi nghĩ là ông giáo sư nọ có
thể có con hay rể chễm chệ một ghế
cao nào đấy của Tổng nha nọ!).
Năm 1963. do thời cuộc quá ư chộn rộn
hay c̣n v́ những lẽ ǵ khác nữa, tập san kỷ
yếu của Viện Khảo Cổ không thấy phát
hành. Đến năm 1964 người ta mới ra số
kép 1963 - 1964, bài của tôi vắng bóng đă đành mà
bài của giáo sư DĐK (nhân vật chủ biên) cũng
không hề thế chỗ. Viện Khảo Cổ
đă lờ hẳn, không giải thích lư do, nh́n lại
số thư của họ gởi, tôi thấy sao mà mỉa
mai chua chát. Năm 1966, ông DĐK qua đời, cáo phó đầy
đủ chức danh, bấy giờ tôi mới vỡ
lẽ về một mưu mô chu đáo, có hệ thống
chặt chẽ nấp sau bức thư thứ ba gởi
tôi. Dù là nạn nhân đáng lẽ phải căm uất
mười phần nhưng tôi vẫn phải thừa
nhận "đường đi nước bước"
của ông ta biểu hiện một bản lĩnh
đầy cơ trí hiếm người có nổi. Nếu
không có mục cáo phó trên báo năm 1966 chắc tôi chả
tài nào "xâu" được chuỗi mưu mô bí
hiểm ấy của Viện Khảo Cổ. Gẫm
ra trên đời có vô số loại "cừu
non" nhưng riêng tôi có lẽ là chú cừu non c̣i cọc
đáng tội nghiệp nhất!
Tính ra năm 1962 ấy tôi chỉ toàn mừng hụt,
sướng ảo bằng tṛ... đếm cua trong lỗ!
(gần đây t́nh cờ tôi lại nhận ra một
điều bí hiểm khác: ông Nghiêm Thẩm, người
ba lần trao đổi thư từ với tôi thời
ông giữ chức quyền Viện Trưởng Viện
Khảo Cổ ấy đă bị giết khá mờ ám
vào năm 1975 măi đến nay nhà chức trách vẫn
không truy ra được thủ phạm).
Bẵng đi hơn 30 năm, tôi nảy ư khám phá lại
lần nữa hai bài thơ bí hiểm nọ, v́ xét cho
cùng, Viện Khảo Cổ hồi ấy tuy lật lọng
tôi nhưng họ lại cố t́nh dấm dúi
đăng ở một nội san phát hành hạn chế
mà lực lượng người đọc chưa
chắc có ai quan tâm để c̣n nhớ nổi và nếu
có nhớ cũng chưa chắc những kẻ nhớ
ấy c̣n sống trong nước, "chiếc xuồng"
bị Viện Khảo Cổ đánh ch́m ấy xem chừng
đă mất tích hẳn, việc khám phá hai bài thờ
bí hiểm nọ xét ra có vẻ đă quay lại vạch
xuất phát.
Tôi nhờ người bạn công tác ở Bảo Tàng
Huế t́m lại tập san Khảo Cổ ngày xưa
để chép lại hai bài thơ gốc. Tôi gọi là
khám phá lại v́ "bộ nhớ" của tôi không
c̣n lưu được các dữ liệu của ba
mươi năm trước. Lần này tôi chật vật
hơn nhiều mới lập lại được kết
quả cũ.
Tôi gởi đăng số báo Xuân của tạp chí Kiến
Thức Ngày Nay với biết bao bồn chồn háo hức.
Lại thất bại. Sau Tết hơn nửa
năm, có người mách cho tôi biết là họ thấy
số Xuân của báo Thanh Niên có đăng một công
tŕnh như thế, nhưng tôi chẳng thiết tra cứu
v́ chẳng hơi đâu mà đôi co, cũng chẳng biết
ai kư tên tác giả. Lần trước ngót 120 năm
không ai động đến, đúng lúc tôi vào cuộc
th́ có kẻ khác bước theo lập tức. Lần
này cũng vậy, tôi bỏ bẵng 30 năm th́ thiên hạ
cũng bỏ bẵng đúng thời gian chừng ấy!
giá họ "khám phá" tờ Bạn Dân Xuân 1962 th́ chắc
tôi đỡ "ngán ngẩm" mùi vị chua chát của
thế thái nhân t́nh hơn.
Năm 1993, thỉnh thoảng tôi được
đăng một bài ở tạp chí "Khoa Học
Và Phát Triển" tại Đà Nẵng. Một lần
đến Ṭa Soạn nhận nhuận bút, gặp biên
tập viên nọ bảo tôi:
- Chú viết bài cho báo Xuân đi! Báo Xuân nhiều trang nên
cần nhiều bài lắm!
Tôi hứa sẽ gởi một bài viết về mấy
bài thơ bí hiểm nọ. Anh ta tỏ ra chưa biết
sự tồn tại của hai bài thơ ấy và ân cần
giục tôi gởi cho sớm.
Lần thứ ba tôi lại "ném đá ao bèo". Mấy
lần đến Ṭa Soạn, tôi cố t́m gặp
người biên tập viên lần nọ nhưng chỉ
uổng công.
Khoảng giữa năm 1994, một cuốn sách của
NTP ra đời, công bố... công tŕnh nghiên cứu mất
năm năm trời của tác giả. Có người
cho tôi biết NTP từng làm việc ở báo Khoa Học
Và Phát Triển (anh ta vốn xuất thân Đại Học
Tổng Hợp Huế).
Lịch sử lại tái diễn. Đầu năm 1994 tôi
gởi bài th́ giữa năm 1994 có người ra sách.
C̣n từ 1992 đến năm 1994 tôi nằm im th́ thiên
hạ cũng nằm im. Tính ra hai bài thơ ấy tôi
đă gởi Viện Khảo Cổ nhận thư cảm
ơn năm 1962 rồi xuất hiện trên Bạn Dân
Xuân 1963, Thanh Niên Xuân 1992 và thành sách 1994. Tác giả cả
ba lần sau nhất quyết đều... nghiên cứu
độc lập, ai cũng nhất quyết cho ḿnh là
người khám phá đầu tiên!
Những điều bí hiểm bao phủ quanh hai bài
thơ bí hiểm dưới thời Thiệu Trị kể
đến đây thật đă rác tai. Thế nhưng
cả ba trường hợp kể trên lại có một
mẫu số chung rất đáng sợ. Mẫu số
chung ấy tôi mới được biết hồi bốn
năm trước, tức năm 2002.
Nguyên anh thầy bói Cung mà lúc đầu tôi đùa cợt
xấc xược ấy, cuối cùng lại khiến
tôi phải tâm phục khẩu phục, có điều
là từ lần bói bài năm 1962 ấy cho đến
khi anh qua đời, tôi không c̣n dịp nào gặp lại.
Tôi cũng không dàn mặt với giới bói toán nữa
v́ rất thấm thía câu ca:
Có tiền th́ cất bo bo,
Đừng đưa thầy bói mua lo vào ḿnh.
Tuy nhiên, đă có lúc cuộc đời không cho phép ḿnh
làm theo ư riêng.
Năm 2002 ấy, tôi phải cầu cứu đến
bói toán để có hướng đi t́m hài cốt thất
lạc của người anh ruột, một cán bộ
Tiểu Đoàn Đặc Công.
Bà thầy bói nọ tiến hành vài công đoạn
chuyên nghiệp rồi ngồi đối diện, nh́n
tôi một hồi lâu bảo:
- Anh ấy vừa về ngồi cạnh anh đó!
Bà ta mô tả diện mạo người anh tôi đă
hi sinh từ 37 năm trước rất rơ ràng làm cho
tôi không thể không phục.
Khi xong việc chỉ dẫn tôi cách t́m di cốt anh
tôi. Bà ta hỏi:
- Anh có cần coi cho riêng anh không?
Tôi cười:
- Tôi chỉ muốn biết bao giờ ḿnh ra nghĩa
địa thôi! Nhưng cũng không cần biết
trước làm ǵ!
Bà ta bảo:
- Nếu anh kể ḿnh suưt chết đói hai lần, chắc
chẳng có ai tin đâu nhỉ?
Tôi hoảng thật sự! Trên tấm thân 74 cân của
tôi, dấu ấn hai lần chết hụt v́ đói ấy
ghi ở chỗ nào? Sao bà ta chỉ nh́n lướt
đă nhận ra ngay?
Tôi gật đầu tâm phục. Bà tiếp:
- Ở anh có một điều đặc biệt là
anh có bất kỳ mối lợi nào cũng đều
có người t́m cách chiếm đoạt!
Trời ơi! Thế th́ về hai bài thơ bí hiểm
nọ tôi đâu có quyền căm tức ai được
đây? Liệu có phải cả ba kẻ chiếm
đoạt (VKC, báo TN, và cá nhân NTP) đều hành động
theo sự sắp xếp bí hiểm của "thế
lực đặc biệt" nọ hay sao? Lạ thật!
Hóa ra tôi vốn là thứ nạn nhân "được
báo trước" c̣n họ chỉ là những kẻ
thừa hành của "thế lực" ấy, chỉ
v́ tôi mà họ bị tiếng oan lây đấy ư!
Hết
Giáo
Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师
<photo>
Việt Nam, Tháng 04, 2007
|