A ÔNG HÀNH

 

 

 

 

Photography by H. Suzuki
 

 

 

请阅读吳文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

高 伯 适

有 一 人 兮 黑 以 長 ﹐
頭 帶 笠 子 衣 淡 黃 。
牽 攜 弟 子 五 六 七 ﹐
翻 頭 一 顧 入 戲 場 。

擁 錢 索 索 左 右 擲 ﹐
面 如 渴 驥 兩 眼 光 。
呼 兄 喚 老 怒 不 答 ﹐
自 稱 乃 翁 何 昴 藏 ﹗

我 聞 客 言 初 半 疑 ﹐
倉 皇 走 出 乃 見 之 。
匈 匈 背 容 拂 衣 起 ﹐
噫 呼 阿 翁 吾 所 知 。

吾 聞 大 隱 隱 朝 市 ﹐
又 聞 中 隱 在 留 司 。
古 人 逝 矣 不 可 見 ﹐
    長 笑 一 聲 斜 日 辰 。
(*)


(*) : Chữ dùng thay chữ để tránh tên húy  阮福時  của vua Tự Đức.



Tiểu sử tác giả

Cao Bá Quát (1809 - 1854) người huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh (Hà Nội), con một ông đồ nổi tiếng nhưng thi cử thất bại, dồn hi vọng vào con.  Kết quả là Cao Bá Quát đỗ Tú Tài năm 12 tuổi (1821) cử nhân năm 25 tuổi rồi thi Hội hỏng măi.  Năm 1839 ông vào Huế giữ một chức quan nhỏ hàm Lục phẩm song lại giao du với Tùng Thiện Vương khá mật thiết.

 

Trong khoa thi Hương Tân Sửu (1841) ông làm sơ khảo phạm vào tội chữa bài thi nên bị kết án tử h́nh.  Sau giảm thành giảo giam hậu (chờ treo cổ, giữ toàn thây) rồi làm lính chuộc tội, phục dịch cho sứ đoàn đi Tân Gia Ba (Singapore).  Khi về ông được phục chức cũ rồi ra làm giáo thụ (hàm Thất phẩm) ở Quốc Oai tỉnh Sơn Tây.  Ít lâu sau, ông bất măn, theo làm Quốc Sư cho nghĩa quân Lê Duy Cự rồi tử trận.  Nhà họ Cao bị kết án tru di tam tộc.

 

Trong một bài thơ dài 58 câu, Cao Bá Quát tự kể đời ḿnh (B́nh sinh tam thập vận) Ông thú nhận ḿnh là nạn nhân của tài hoa và ái mộ.

 

Thi văn ông bị coi là hàng quốc cấm, thế nhưng được lén lút lưu truyền, đă được trường Viễn Đông Bác Cổ sưu tập hơn 800 bài thơ, hàng chục bài tiểu luận.  Thái Trọng Lai đă dịch thuê hơn 500 bài cho Trung tâm nghiên cứu Quốc Học do cù Huy Cận - bộ trưởng Unesco - thành lập.


Về nhan đề.

"A ông" là tiếng con dâu gọi bố chồng (A bà là mẹ chồng).  Ở đây họ Cao dùng gọi bố vợ là dựa vào lời vua Tống Thần Tông (Cao Bá Quát học rộng, nhớ nhiều và thích dùng từ bí hiểm làm khó cho người đọc dung tục).



Bài dịch:

A ÔNG HÀNH


Cao Bá Quát


Có ông nọ da đen bậc nhất,
Áo cháo ḷng, nón lá đội đầu.
Con em năm bảy theo sau,
Hất hàm xui chúng mau mau vào ṣng.

Tiền rủng rỉnh đặt vung các cửa,
Mắt sáng ngời như ngựa gặp khe.
Réo anh, gọi cụ chẳng nghe,
Ngang tàng tự thấy ông này kém ai!

Nghe người tả có "ngài" thế ấy,
Ngờ ngợ ta vội chạy ra xem.
Thấy lưng áo phắt đứng lên,
Hỡi ơi!  Ông ấy ta quen lâu rồi!

Kẻ đại ẩn, ẩn nơi thành thị,
Trung ẩn th́ náu chốn quan nha.
Người xưa giờ đă khuất xa,
Cười khà một tiếng chiều tà bóng nghiêng.


Thái Trọng Lai dịch
  太重来 <photo>

Tháng 11, 2006, Việt Nam

 

 

 

 

 

***  投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở, h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Copyright © 2005, 2006 KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer