| 
       
    Tôi
    bắt đầu học lớp ấu trĩ viên
    (mẫu giáo) lúc được 5 tuổi (năm 1971).
    Trong thời gian học trong môi  trường Khải Minh (cho đến năm
    1975), trong đôi mắt tuổi thơ của tôi,
    trường Khải Minh là một ngôi trường
    rộng lớn, sạch sẽ.  Thầy Cô giáo
    chững chạc, lịch sự, và đẹp
    người.  Các bạn học ai cũng đều
    dễ thương, mặt mũi sáng sũa, 
    thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.  Lúc đó
    tôi vẫn biết có một số Thầy Cô giáo sau khi
    tốt nghiệp ở trường và ở lại làm
    Giáo Viên luôn.  Nhưng tác phong và tŕnh độ vẫn
    được trang bị rất chuyên nghiệp. 
    Nhà trường thường xuyên tổ chức các
    buổi ca vũ nhạc, thi đấu bóng rổ, thi
    toán, luận văn, nhạc....  Đối với tôi,
    thời thơ ấu trải qua ở trường
    Khải Minh là thời kỳ hoàng kim của cuộc
    đời tôi.  Khải Minh như là một thiên
    đường với những Thầy Cô giáo là
    những vị Tiên, các học sinh như là những thiên
    sứ... 
     
    Trong Lớp Học:  Thầy Cô,
    Bạn Cùng Lớp Và Bài Học 
     
     
    Trong khối một gồm có 3
    lớp:  A, B, C.  Mỗi lớp có hơn 50
    học sinh.  Tôi học lớp 1C.  Lớp
    trưởng từ lớp 1C là Phan Thúy Ưng:  Một
    cô bé thông minh, học giỏi và dễ thương
    nhất lớp với cặp mắt to đen láy và khuôn
    mặt bầu bỉnh.  Lên lớp 2, tôi học
    tiếp lớp 2C nhưng lên lớp 3 th́ 3 lớp A, B, C
    nhập lại chỉ c̣n 2 lớp,  và mỗi
    lớp có đến hơn 60 học sinh.  Tôi học
    lớp 3B.  Lúc này tôi đă chơi thân với các
    bạn Ngụy Chí Phát, Lâm Minh Hoa, Thạch Quốc
    Trụ, Lâm Di Quư, Soái Diệc Xuyên, anh em Mai Quảng Thành,
    Mai Quảng Liêm... 
     
    Sách giáo khoa của Đài Loan và chương tŕnh giảng
    dạy của trường khiến tôi rất thích
    thú.  Từ nhỏ, tôi đă tỏ ra xuất sắc
    môn tiếng Hoa.  Có thể do tôi có điều
    kiện khá thuận lợi:  Ở nhà tôi có máy hát
    đĩa và cả ngày đều phát các bài  hát do các
    ca sĩ  nổi tiếng hát như:  
    Huỳnh Thanh Nguyên, Thanh Sơn, Dương Tiểu B́nh,
    Trương Tiểu Anh, Đặng Lệ Quân...  khiến tôi không học
    cũng phải thuộc ḷng .  Trong các buổi
    văn nghệ của lớp Cô Hàn Hồng (Cô chủ nhiệm
    của lớp tôi) thường gọi tôi lên
    đứng giữa lớp hát.  Tôi c̣n nhớ tôi hay
    hát các bài hát mới nhất và thịnh hành nhất
    thời đó như:  Thiên Ngôn Vạn Ngữ (Mùa Thu
    Lá Bay), Hải Âu Phi Xứ, Minh Nhật Thiên Nhai (Cánh Chim
    Bạt Gió), Tam Hữu Thiên Thiên Kết (Biết Tỏ
    Cùng Ai)... chủ yếu là các tác phẩm nhạc phim
    của Quỳnh Dao.  Thực tế tôi ở nhà tôi
    xem lời và hát theo, chứ một chú nhóc như tôi ở
    vào tuổi đó biết ǵ gọi là t́nh yêu mà hát! 
     
    Ngoài môn “phanh âm”, tôi kém cả môn viết.   Tôi cũng viết chữ
    rất xấu, có thể là do tôi viết bằng tay trái.
    Thực tế rất ít người viết chữ Hoa
    mà lại viết tay trái!  Theo tôi nghĩ có thể Cô
    giáo không phát hiện, chứ nếu không hiện nay tôi
    phải dùng tay phải viết chữ rồi. 
    Mỗi một lần đến ngày cuối cùng
    để được nghĩ Tết, Cô giáo cho chúng
    tôi bài tập viết về nhà viết cả chục
    trang giấy và không khí trong lớp rất sôi
    động, ồn ào cả Cô giáo cũng không văn hồi
    được trật tự trong lớp...  Về
    các bài học tôi vẫn c̣n ấn tượng về
    sự thông minh lanh trí cứu bạn của Tư Mă
    Quang, về sự kiên tŕ của Ngu Ông khi dời
    ngọn núi trước nhà, tấm ḷng hết ḷng v́ dân
    của Vua Đại Vũ khi chống lũ lụt và
    cả những bài học về các đức tính
    của các danh nhân Âu Mỹ như Washington, Edison,
    Watt...  Môn học bàn tính tôi cũng nhớ khá
    đậm nét:  Khi dạy Thầy Hàn Quốc B́nh mang
    theo cái bàn tính to bằng cái bàn và treo trên bảng
    để dạy, và mỗi học tṛ tự mua một
    cái bàn tính nhỏ bé xíu bằng kích thước một
    quyển sách, và chúng tôi hay dùng làm giày trượt patin...
    Thật kỳ lạ:  Những bài học tôi học
    từ tiểu học tôi lại nhớ rất
    nhiều, c̣n những bài học tôi học khi tôi khôn
    lớn lại khiến tôi mau quên.  Tại sao?  Có
    phải khi tôi không c̣n ở trong môi trường Thiên
    đường của Khải Minh th́ cái tinh, cái
    thần, và cái tâm của tôi cũng mất theo?  Và
    tự sâu đáy ḷng tôi, tôi vẫn nhớ và biết
    ơn dạy dỗ của các Thầy Cô của Khải
    Minh, nhất là cô Hàn Hồng.  C̣n những Thầy Cô
    giáo sau này tôi lại ít ấn tượng hơn.  Theo tôi có thể là do môi
    trường học khác nhau. 
     
    Ở lớp ấu trĩ, tôi ngồi chung bàn với Lâm
    Thục Anh nhà ở đường Quốc Lộ
    1.  Lớp 1, tôi ngồi chung với Quánh Hán Minh,
    một anh chàng hiền lành.  Lên lớp 2, tôi ngồi
    chung với Lư Vĩ Cường, một anh chàng có
    đôi mắt to và hàng mi cong vút, con trai của ông Lư
    Thắng Hữu.  Lớp 3, th́ tôi ngồi chung
    với Vân Đại An, con trai của nhà hàng Dân Thiên, anh
    chàng lúc nào cũng ăn vận gọn gàng, sạch
    sẽ...   Sau ngày Nha Trang giải phóng, Phan Thúy
    Ưng không c̣n học ở Khải Minh nữa
    (điều này khiến tôi buồn và tiên tiếc cái ǵ
    đó) và tôi được bầu làm lớp
    trưởng, đây là chức vụ đầu tiên
    trong đời tôi và tôi giữ chức đó cho
    đến ngày rời khỏi Khải Minh.  Sau này,
    khi tôi không c̣n học ở Khải Minh, tôi tham gia
    nhiều lớp học khác nhau, nhưng tôi luôn luôn
    từ chối công việc lớp trưởng.  H́nh
    như đối với tôi chỉ có ở Khải Minh
    mới thấy công việc lớp trưởng có ư nghĩa... 
     
    Trong Sân Trường:  Mồ
    Hôi, Máu Và Nước Mắt 
     
     
    Đối với nam sinh ở Khải Minh
    mà không biết chơi bóng rổ th́ không phải là
    học sinh Khải Minh.  Gần như tất cả
    nam sinh đều chơi bóng rổ, lứa tuổi
    nhỏ như tôi ném không nỗi trái banh hiệu Quốc
    Quang th́ đi mua trái banh tennis chơi.  Năm tôi
    học lớp 3 th́ lớp tôi bắt đầu
    được tham gia thi đấu cùng lớp khác. 
    Tôi nhớ lớp tôi lấy tên là đội Hải Âu,
    nhưng đánh quá dỡ v́ trong lớp đa số
    nhỏ con.  Lúc đó trong mắt tôi rất
    ngưỡng mộ đội bóng lớp 6 gồm có các
    anh Ngụy Minh Phát, Lâm Lê Minh... đội bóng mang tên
    Thượng Vơ và có số áo rất to như số 89,
    90, 110...  Bản thân tôi năm học lớp 3
    rất ốm và thấp người nên không
    được chọn cho đội bóng của
    lớp, tôi ném trái banh không đến rổ mà chơi cái
    ǵ? (tôi nghĩ hiện nay đem cả lớp ra so th́ tôi
    có thể cao to nhất lớp:  Cao 1m72, nặng
    75kg).   Mỗi lần đến giờ ra
    chơi, tôi cùng các bạn như Ngụy Chí Phát, Thạch
    Quốc Trụ, Lâm Minh Hoa... 
    chơi bằng trái banh tennis.  Thường th́
    chúng tôi chơi bên sân phụ, tức sân nhỏ bên
    trước cửa Giáo Vụ Xứ chứ bên sân
    lớn các anh lớp lớn chơi kín cả.  Và
    chúng tôi chơi say sưa suốt cả giờ ra
    chơi, mồ hôi nhễ nhăi nhỏ đầy sân
    trường. 
     
    Có một buổi chiều Chủ Nhật tôi đến
    trường chơi và say sưa xem các anh lớp lớn
    chơi bóng rổ, tôi đứng ngay dưới giàn
    rổ xem.  Trong một đợt tấn công ném banh
    vô rổ, anh Vương Tường theo đà nhào vô
    người tôi và dẫm trúng ngón cái chân trái của tôi
    làm toét ngón và chảy máu, anh Tường chỉ hỏi
    qua quưt và tiếp tục chơi.  Tôi lê chân về nhà
    và máu nhỏ giọt theo đường tôi đi. 
    Hiện nay mỗi lần tôi nh́n thấy dấu sẹo
    ở ngón chân cái là tôi nhớ lại tai nạn này:  Một
    kỷ niệm về mê xem bóng rổ! 
     
    Năm học 1974, nhà trường có quy định
    cấm học sinh mua quà vặt ở ngoài trường
    vô ăn.  Hôm đó, tôi mua gói bánh ở căn tin nhà
    trường và trên đường về lớp th́
    bị Thầy Mao bắt được, Thầy cho là
    tôi mua quà từ ngoài trường và bắt phạt tôi
    đứng giữa sân trường phía trước
    Hiệu Vụ Xứ cả buổi.  Tôi tủi
    hổ và khóc tức tưởi giữa sân
    trường, nhiều học sinh đi ngang qua nh́n tôi
    khiến nước mắt tôi càng lăn nhanh liên
    tục xuống đôi g̣ má và nhiễu ướt sân
    dưới chân tôi... 
     
    Ân Trọng Như Sơn, Nghĩa
    Thâm Tựa Hải: 
     
     
    Cha tôi qua đời khi tôi c̣n thiếu 7
    ngày là vừa tṛn 1 tuổi.  Mẹ tôi lo cho bốn
    đứa con cái ăn, cái mặc đă là quá gian khổ
    rồi làm sao lo nổi cái học của con, nhất là
    học phí của trường đối với
    một người đàn bà chồng chết quá trẻ
    không có để lại gia tài sản nghiệp ǵ
    cả.  May sao cộng đồng người Phúc
    Kiến ở Nha Trang xác nhận và mẹ tôi đến
    trường xin cho bốn anh em tôi được
    học miễn  phí v́ hoàn cảnh quá khó khăn. 
    Các vị trong Đổng Sự Hội và nhà trường
    chấp nhận việc học của bốn anh em chúng
    tôi được miễn cả về học phí và sách
    vở, mẹ tôi chỉ cần lo áo quần đồng
    phục.  Tôi nghĩ nếu lúc đó không có tiền
    học Khải Minh chắc tôi phải học
    trường công lập dạy toàn tiếng Việt và
    cuộc đ̣i tôi chắc là rẽ sang ngă khác... 
    Từ thập niên 30 của thế kỷ trước
    cho đến năm 1975, các vị sáng lập
    trường, các vị trong Đổng Sự Hội cùng
    các vị Mạnh Thường Quân góp tài lực xây
    dựng trường Khải Minh cho đến nay
    vẫn c̣n lưu danh bia đá tại trường: 
    Khi vô cổng trường nh́n bên tay phải ta sẽ
    thấy ngay bốn bia đá ghi danh các vị sáng lập
    và xây dựng trường.  Bốn bia đá lập
    danh sách các thời kỳ khác nhau:  Năm 1933, 1948,
    1956, 1971.  Hơn bảy mươi năm biết bao
    biến cố xảy ra, biết bao thăng trầm,
    biến đổi ở trường Khải Minh, dù cho
    tên trường đă thay đổi đến 5, 6
    lần, nhưng bốn bia đá đó vẫn được
    giữ nguyên, những công sức vĩ đại
    của các vị Kiều Hiền vẫn hiện hữu
    cùng năm tháng, vẫn được ghi ḷng tạc
    dạ không những của cá nhân tôi mà c̣n của hàng ngàn
    cựu học sinh Khải Minh trên toàn thế giới và
    xứng đáng được cả hàng vạn học
    sinh đă học, đang học và sẽ học ở
    ngôi trường này nhớ ơn. 
     
    Vỡ Mộng Và Niềm Tự Hào: 
     
     
    Năm 1975, sau khi
    chế độ Miền Nam Việt Nam tan vỡ, hàng
    loạt ước mơ của tôi cũng tan vỡ
    theo:  Tôi không c̣n mơ ước chóng lớn
    để được mặc quần dài và thắt
    cravate như các anh lớp lớn; tôi không c̣n mơ
    ước chóng lớn để chính thức trở
    thành cầu viên của đội bóng rổ Kiều
    Thanh đầy kiêu hănh của trường; tôi không c̣n
    được đào tạo tiếng Hoa đầy
    đủ để trở thành người xử
    dụng tiếng Hoa xuất sắc như người
    bản xứ; tôi không c̣n cơ hội lớn lên làm giàu để
    trở thành Đổng Sự của trường, góp công
    sức cho nhà trường; tôi không c̣n nhận
    được sự dạy dỗ của các Thầy
    Cô giáo mà ḿnh mơ ước lên lớp lớn sẽ
    được học; điều đau buồn
    nhất là tôi không c̣n và chắc là không bao giờ gặp
    lại các Thầy Cô kính yêu và các bạn cùng lớp thân
    thương của tôi; và điều cuối cùng là
    đối với Thiên Đường Khải Minh cùng các
    vị Tiên; các Thiên Sứ không c̣n nữa.  Thiên
    Đường đó măi măi chỉ c̣n lại trong kư ức
    tôi và sẽ sống măi trong suốt cuộc đời
    tôi. 
     
    Năm 1979, tôi rời khỏi Khải Minh, dù rằng sau
    này tôi đi học ở các trường khác và hiện
    giờ tất cả bằng cấp của tôi không có
    cái nào của trường Khải Minh, nhưng khi
    được mọi người hỏi tôi đă
    học và tốt nghiệp ở trường nào, tôi
    đều trả lời một cách rất tự
    hào:  KHẢI MINH! 
      
     
    VƯƠNG VĨNH HIỆP 王永協 
    Nha Trang, tháng 7 năm 2005 
      
      
     |